Không khí chiến tranh còn thể hiện dưới những dạng khác mà khách sạn Hương Giang là điển hình. Khách sạn nằm trên bờ sông Hương rất sang trọng, đa số khách lúc đó là dân nhà báo đủ quốc tịch Tây, Mỹ, Nhật… Đám người này đến đây không liên hệ gì đến Huế và họ cũng chẳng quan tâm gì đến Huế. Họ đến đây để chia nhau rỉa rói những phó sản của chiến tranh. Nơi đây là một thế giới khác. Khi đô la lên tiếng thì cái gì cũng có. Bên ngoài có những gia đình không đủ cơm ăn ngày hai bữa nhưng tại khách sạn Hương Giang vẫn có bia Michelob, Bud, có Whisky, có Cocktail … và đủ mọi thứ để phục vụ những ông nhà báo đang góp tay vào hạ gục miền Nam.
envoyé : 15 juin 2021 à 16:54
Lê Thiệp: Trăng Đại Nội
Bỗng dưng nhớ Huế tệ. Nhớ quay nhớ quắt. Lý do là buổi sáng ra khu Eden thì bỗng gặp ông bạn Đan. Ông Đan đi với vợ và bận đủ thứ chuyện nên bẽn lẽn xin lỗi đã đến DC mà không liên lạc với bạn bè. Thì đã sao ? Bằng hữu chơi với nhau không nên nghiêm trang và khách sáo quá, miền là giữ cái tình cái nghĩa, nhất là tình nghĩa của thời còn cắp sách đi học còn mọi sự thì có gì đáng để bận tâm. Nhưng khi chia tay nhau thì những kỷ niệm ào ạt trở về , nhớ Huế vô vàn và không hiểu bạn mình có nhớ đêm Trung Thu năm đó chăng ?Tôi không nhớ lần đầu tiên đến Huế năm nào, chỉ nhớ cùng đi có ông bạn Bảo Hoàng – con vua cháu chúa thứ thiệt . Nhưng ông này mất gốc, sinh và lớn lên ở Miền Nam, nói đặc giọng Nam Kỳ, trong cách ăn ở chả có tí Huế nào cả. Nên khi tôi hỏi núi Ngự Bình ở đâu thì ông ớ người ra. Trên đường từ Phú Bài vào may quá có đi qua Ngự Bình và câu nói Non Bất Cao Thủy Bất Thâm hiện ra trong đầu tôi. Gọi Ngự Bình là núi e hơi quá vì đó chỉ là một ngọn đồi hơi cao mà thôi. Tối hôm đó tất nhiên tôi ngủ đò cho biết mùi đời.Trong cảnh sông Hương phẳng lặng chỉ hơi gợn tí sóng nhất là có tí hơi men, a lê hấp tôi vươn vai bờ lông dông xuống. Mẹ ơi tí nữa thì đi đong. Mắt tôi tối sầm, mồn sặc bùn và rong rêu, may quá cố vùng vẫy nổi lên được. Sông Hương quãng đó trông mênh mông nhưng nước nông sờ và đáy toàn rong rêu mọc trên bùn. Tình Ca — Tôi yêu tiếng nước tôi — có câu “Biết ái tình ở dòng sông Hương.” Ông Phạm Duy khi viết câu nhạc này không hiểu có phải là vụ ngủ đò không và nếu quả như vậy thì hiện thực khi được thi vị hóa e sẽ khiến những kẻ như tôi khi đâm sầm vào thực tế, thất vọng biết chừng nào.Xin kể một câu chuyện khác cũng hơi na ná cho thấy chuyện gì cũng có mặt phải mặt trái. Nhớ Người Cày Có Ruộng? Ông Thiệu có lẽ sẽ “Để Tiếng” trong lịch sử nhưng đạo luật Người Cày Có Ruộng, chính đạo luật này đã khiến Cộng Sản trớt lớt khi chiếm được miền Nam, đã bó tay trong mưu toan dùng chính sách chia ruộng để mị dân và không thi hành nổi cái quái chiêu hợp tác xã nông nghiệp đã làm miền Bắc tan hoang. Điều lạ là khi ký đạo luật này thay vì ký ở đồng bằng sông Cửu Long, ông Thiệu lại chọn đất Thần Kinh. Đám nhà báo tụi tôi có mặt ở Huế trước đó một hai ngày. Tôi còn nhớ cùng Lê Phú Nhuận của đài Sài Gòn đi ngủ đò cho phải phép trong khi chờ đợi. Trên sông Hương, sau khi làm đầy đủ nghĩa vụ quân dịch hai đứa ngồi trà dư tửu hậu với hai cô bé sông Hương. Tôi hỏi :– Em có biết hò Huế không ?– Hò chi mà không biết. Rứa anh muốn hò chi ?– Hò chi cũng được, miễn là hò Huế.Cô bé cất tiếng :– Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp.Thương nhau rồi hãy kíp về mau.Nữa mai đây bóng xế qua cầu.Bậu còn thương bậu biết gửi sầu về nơi mô.Không ngờ cô bé hò hết xẩy, giọng lanh lảnh vang xa như cùng những đợt sóng lan rộng trên mặt sông. Cũng không ngờ là Lê Phú Nhuận đã mở máy ghi âm thu toàn bộ câu hò. Hôm sau, trong cuộc trực tiếp truyền thanh lễ Tổng Thống VNCH ký đạo luật NCCR mở đầu là câu hò Lê Phú Nhuận thu trên sông Hương và sau đó là câu dẫn “Kính thưa qui thính giả… Quí vị vừa nghe một giọng hò Huế, không phải của một ca sĩ nhà nghề mà là của một thôn nữ, một o gái quê Huế …”A ha hình như tôi đang lững thững trong quá khứ, trong kỷ niệm riêng tư nên đã lạc đề rồi. Vâng hôm ấy vào một buổi xế chiều mùa hè đỏ lửa tôi từ La Vang về Huế, đang lững thững đi trên cầu Tràng Tiền mắt láo liên nhìn những nữ sinh Đồng Khánh áo trắng quần trắng tóc thề đạp xe đạp thì một chiếc xe Jeep nhà binh ép vào và có tiếng :– Ê, Thiệp mày đi đâu vậy ?Nguyễn Quang Đan nhoài người ra khỏi xe gần như muốn ôm lấy tôi. Nhìn ông đại úy Thủy Quân Lục Chiến trang bị đến tận răng dù đang ở hậu cứ Huế, tôi nhớ ngay ông bạn mình đang là người đi sát với tướng Bùi Thế Lân, xếp chúa TQLC nên máu nhà báo nổi dậy quên phéng hỏi han bạn bè :– Ê tao đang ở đây lo tin tức. Mày hỏi xem tao phỏng vấn ông Lân được không ?– Tao đang kẹt tứ tung, mày ở đâu tối tao lại đón?– Tao ở Hương Giang– Ngon. Tao đến cỡ bảy giờ rồi kiếm cái gì lai raiTôi có cái suy nghĩ lẩm cẩm nếu Gia Long chọn Hà Nội hay Sài Gòn làm kinh đô thì liệu lịch sử Việt Nam có khác chăng? Đã đành Nguyễn Hoàng nhờ Phú Xuân mà khởi nghiệp theo lời khuyên của Trạng Trình. Nhưng đến Nguyễn Phúc Ánh sau khi thống nhất thì khác hẳn. Thành Cát Tư Hãn từ một tộc trưởng Mông Cổ đã vung ngọn mâu, thúc chiến mã tung hoành thiên hạ từ Âu sang Á nhưng rồi nhà Nguyên vẫn lấy Bắc Kinh làm kinh đô. Cái nhìn địa lý chiến lược – phải chăng là phong thủy – của ông đã giúp nhà Nguyên đứng vững lâu dài. Nếu Thành Cát Tư Hãn cũng lại bo bo với quan niệm đất tổ, lấy một thảo nguyên nào đó ở sa mạc làm kinh đô thì liệu nhà Nguyên tồn tại được bao lâu ?Huế phong cảnh hữu tình nhưng nhỏ hẹp, không hùng vĩ, giao thông thủy bộ đều không tiện lợi. Huế là cái eo của bản đồ chữ S ở chỗ thắt lại từ bờ biển vào đến biên giới chưa quá 40 cây số không phải là vị trí chiến lược để dụng binh cả công lẫn thủ. Phải chăng Gia Long với quan điểm hẹp hòi vẫn cố bám lấy “đất tổ”, đất khởi nghiệp của ông cha, thiếu cái nhìn xa trông rộng của bậc đế vương. Hà Nội có quá trình lịch sử lâu dài, có kho nhân sự đã được hun đúc từ lâu. Sài Gòn đất mới, sức sống ngùn ngụt, ruộng đất phì nhiêu, giao thông tiện lợi, có thể nhìn ra biển Đông, ngó xuống Đông Nam Á. Nếu Gia Long chọn Hà Nội – nhân hòa, hoặc Sài Gòn – địa lợi thì liệu lịch sử có gì khác chăng ?Tôi từng đến Huế trước Mậu Thân và cái hảo cảm với đất thần kinh không bao giờ phai nhạt. Học trò xứ Quảng thấy cô gái Huế chân đi không đành thì một tên Bắc Kỳ nhà quê như tôi chỉ muốn chôn chân tại chỗ. Sau Mậu Thân, Huế như một thành phố thiếu hơi thở. Vì chiến tranh. Vì bom đạn. Vì Việt Công tràn vào giết chóc không nương tay khiến Huế như một sương phụ lúc nào cũng vấn trên đầu mảnh khăn tang. Mùa hè 1972 Huế bỗng như hậu cứ của toàn bộ guồng máy chiến tranh. Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Sư Đoàn 1 và nhiều đơn vị khác nữa đang dàn hàng để tái chiếm Quảng Trị. Khắp thành phố giữa những tà áo học sinh màu trắng ngây thơ, giữa những bà già câm nín quẩy gánh bún bò bán rong, giữa những khuôn mặt ngơ ngác dật dờ của người dân là lính tráng và xe nhà binh.Không khí chiến tranh còn thể hiện dưới những dạng khác mà khách sạn Hương Giang là điển hình. Khách sạn nằm trên bờ sông Hương rất sang trọng, đa số khách lúc đó là dân nhà báo đủ quốc tịch Tây, Mỹ, Nhật… Đám người này đến đây không liên hệ gì đến Huế và họ cũng chẳng quan tâm gì đến Huế. Họ đến đây để chia nhau rỉa rói những phó sản của chiến tranh. Nơi đây là một thế giới khác. Khi đô la lên tiếng thì cái gì cũng có. Bên ngoài có những gia đình không đủ cơm ăn ngày hai bữa nhưng tại khách sạn Hương Giang vẫn có bia Michelob, Bud, có Whisky, có Cocktail … và đủ mọi thứ để phục vụ những ông nhà báo đang góp tay vào hạ gục miền Nam.Đại úy Nguyễn Quang Đan y hẹn đến đón tôi, và ông vẫn như lúc chiều giày saut áo trận, súng ống cả lô. Chiếc xe jeep mui trần chật cứng vì nhét đến sáu bảy mạng. Ông Đan đãi tôi món mắm tôm điềm, loại mắm tôm nguyên con đỏ lừ ăn với thịt luộc và rau sống. Quán ở Vỹ Dạ … lâu quá không về thăm thôn Vỹ … để nhìn … nét mác che ngang mặt chữ điền.Cơm ngon và ông Đan bảo :– Hôm nay Trung Thu, vợ tao gửi cho hộp bánh và ít trà. Mày về chỗ tao uống trà thưởng trăng.Thú thật tôi đầu óc lúc nào cũng căng thẳng không nhớ là đã Trung Thu.– Trung Thu rồi hả. Tao có nhớ mẹ gì đâu. Có bánh có trà thì hết xẩy.Bộ tư lệnh của tướng Lân hình như đóng ở Mang Cá, nhưng ông Đan ngon hơn nhiều, ông trấn ngay Đại Nội. Có lẽ đã được dặn trước, khi đi qua một lô những nhà từng có tên như Tả Cung Hữu Cung… hai đứa vòng qua điện Thái Hòa vào hẳn trong thì thấy một chiếc bàn con thấp và hai chiếc ghế đẩu bày sẵn giữa sân chầu. Không hiểu mấy ông lính lôi ở đâu ra, nhưng bên cạnh đó có một bếp lò than hồng và một siêu nước đang sôi.Hộp trà Chính Thái vẫn còn nguyên lớp giấy bóng đỏ lấp lánh, còn bánh trung thu Đông Hưng Viên thì bày trên chiếc dĩa sứ khá lớn. Chiếc ấm và hai cái ly nhỏ trông cổ kính. Đâu đó trong đầu tôi lóe lên ý nghĩ dám mấy ông lính lẻn vào điện Thái Hòa chôm đỡ cái ấm chăng ?Sở dĩ như vậy vì có lần mấy đứa nhà báo tụi tôi được ông thủ từ mở khóa cho vào tận trong. Tôi đã nhìn thấy long sàng, thấy ngai vua và đủ thứ lỉnh kỉnh khác. Một tên xin phép ngồi lên ngai để chụp hình thì bị ông thủ từ mắng cho một trận vì tội hỗn láo, tội khi quân ngày xưa có thể bị chu di tam tộc.Nhưng cung điện nhà Nguyễn bị phá tan hoang từ 1945 khi Cộng Sản nổi lên cướp chính quyền và sau đó là bao nhiêu lớp sóng phế hưng. Ngay cả bức tường thành bao quanh cũng xập nhiều đoạn, những chỗ khác thì lở lói loang lổ. Các tòa nhà thì hoặc bị thiêu rụi hoặc mất mái trơ tường, dăm ba ngôi còn lại thì thảm não vì không ai chăm sóc. Một tên bạn ghé tai tôi nói nhỏ “Đồ rởm không mày ơi. Đồ thật phiêu du hạc nội mây ngàn lâu rồi. Mày thử nhìn mấy chiếc lọng coi. Y chang đồ phường tuồng. Vua chúa ngày xưa đâu có chơi thứ rẻ tiền mạt rệp thế.” Tôi cũng thầm đồng ý và nhìn chiếc ấm có cổ nhưng rõ là của giả chợt nhớ chuyến vào điện Thái Hòa ngày nọ.Ông Đan của tôi thì vẫn như hồi còn ở đường Lê Văn Duyệt, lúc nào cũng từ tốn và dù trận mạc đầy người ông vẫn có nụ cười đôn hậu nở trên môi. Tôi nghĩ dù có trôi sông lạc biển, dù xa cách bao lâu chăng nữa nhưng chỉ nhìn thấy nụ cười là nhận ra bạn ta ngay. Ông Đan chậm rãi khui hộp trà, nhúm một nhúm trà bỏ vào bình, xem như xung quanh chẳng có gì đáng quan tâm. Hôm qua có thể ông đang hành quân và ngày mai có thể ông sẽ đụng địch đâu đó ở Hải Lăng. Nhưng bây giờ thì ông đang ung dung pha trà đãi bạn.Tôi im lặng quan sát. Một chút gì nhè nhẹ dâng trong lòng tôi. Hãy còn sớm trăng chưa lên cao nhưng trời trong mây tỏ. Tôi như lạc vào cơn mơ. Xung quanh tôi là cả một lịch sử từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài cho tới nay để có Đại Nội. Những pho tượng cao bằng người thật im lìm trong ánh trăng nhạt. Những tượng voi đá bất động. Những chiếc lư đồng trên khắc ghi công trạng của các vua chúa triều Nguyễn, của những vị khai quốc công thần vẫn còn y đó quanh đây.Ông Đan lên tiếng :– Mẹ kiếp mấy tháng rồi chưa thấy mặt vợ con. Trung thu đáng lẽ phải cùng mấy đứa nhỏ phá cỗ …Ông bỏ lửng câu nói, và có gì chua xót khiến tôi phải pha trò cho bớt cái thê lương :– Thôi, đâu có phải lúc nào tôi với ông cũng có dịp ngồi trong cung cấm ăn bánh uống trà thưởng trung thu. Hay ông đóng vai Đường Minh Hoàng, tôi làm Lý Bạch cho đúng cảnh.Đan cười. Chúng tôi quên béng những gì đang xảy ra và huyên thuyên nói chuyện ngày xưa. Ngày xưa là ngày còn bé tí ở đất Bắc, cỗ trung thu có bưởi, có hồng, có những con giống bé tí đủ màu sắc. Ngày xưa là ngày mới di cư vào Nam. Ngày xưa là hồi còn mài đũng quần ở trường Nguyễn Trãi, chuyện các ông thầy như thầy Bùi Thái Trừu. Ngày xưa là chuyện Dũng Mao Xếnh Xáng, là chuyện đi thi trung học có bài vẽ phân độ cái ghế và nhắc đến ông Thịnh Del. Ôi, đủ thứ chuyện. Chuyện ciné Đa Kao, chuyện trốn học, chuyện dĩa xôi lạp xường của bác Ba Bít Tất. Hết tuần trà này đến tuần trà khác.Bỗng ông Đan thở dài :– Nếu không có chiến tranh chắc tao sẽ là một anh nông dân vì tao yêu đồng ruộng và chắc gì mày đã đi săn tin chiến sự ở cái xứ Huế này. Nay ngẫu nhĩ hai đứa lại ngồi giữa chốn đế vương này trong một đêm trung thu. Đáng lẽ tao mở cửa Ngọ Môn đón mày và có khi lại sai lính bồng súng chào cho nó đúng nghi lễ hoàng gia. Nhưng tính tao không giễu dở được nên thôi, chỉ nhờ mấy chú bày bàn ở đây. Thế này cũng là hỗn rồi.Xung quanh chúng tôi lạnh ngắt như tờ. Trăng đã lên cao sáng vằng vặc, dễ có quá nửa đêm. Có cái gì rờn rợn trong không khí. Bỗng đâu những tên tuổi thoáng hiện trong đầu tôi. Tự Đức, Hàm Nghi, Duy Tân, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Thành và cả Ngô Đình Khả cùng Ngô Đình Diệm. Tôi rùng mình da gà nổi lên. Ông Đan không hiểu có chung cái cảm giác này không nhưng nâng chén trà lên. Tôi cũng nâng chén. Trà đã nguội ngắt.– Ngày mai tao phải đi sớm. Mới họp xong. Lệnh lạc lúc này như con thò lò nhưng mình là đầu sai, chỉ đâu đánh đó. Nếu có dịp tao sẽ hỏi ông Lân cho mày. Tao đưa mày ra cửa Ngọ Môn nhưng là cửa xép. Cửa chính ngày xưa chỉ mở khi có đại lễ. Tao nghĩ hai đứa mình tài cán gì mà dám nghênh ngang qua Ngọ Môn. Thôi thì đi cửa hông cũng vinh dự chán.Tôi đồng ý ngay :– Ừ. Tao thấy dù thế nào đi nữa thì cũng không thể khinh thường lịch sử được. Đi cửa hông là đúng.
Leave a Reply