KIÊM ÁI ĐỌC: “MƯA TRÊN SÔNG ĐỒNG NAI” – TỰ TRUYỆN CỦA NGUYỄN THIẾU NHẪN
*KIÊM ÁI
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như,
Tố Như
Đọc truyện Kiều, có nhiều người cho rằng cụ Nguyễn Du, một trung thần của nhà
Lê phải ra làm quan với nhà Nguyễn là một việc làm vạn bất đắc dĩ, do đó Tố Như
tiên sinh đã nhân đọc cuốn “Thanh Tâm Tài Nhân” thấy thích hợp với tâm sự của
mình mà viết cuốn Đoạn Trường Tân Thanh để gởi gắm tâm sự của mình. Và
Truyện Kiều đã trở nên một tuyệt tác phẩm của văn chương Việt Nam. Theo ngu ý
của kẻ viết bài này thì sở dĩ Tố Như Tiên Sinh đã tạo nên một thiên tuyệt phẩm này
là vì Tố Như đã trải hết tâm sự của mình, sống thực với tác phẩm của mình.
Thời phong kiến, cha ông chúng ta phải dùng “ý tại ngôn ngoại” để nói điều muốn
nói, để tránh cho mình tai vạ. Nhưng đời nay lại khác, khác mà không khác. Đời
nay, nhiều người cũng muốn ghi lại tâm sự của mình, cuộc đời của mình. Và cách
thông thường là dùng thể loại “Hồi Ký” để ghi lại những gì mình đã trải qua,
những việc mình đã làm, những người mình đã gặp gỡ, cộng tác hay phục vụ.
Nhưng thể loại Hồi Ký đã bị một số người lợi dụng để bào chữa cho mình, bào
chữa cho phe nhóm mình hay để lên án kẻ khác. Những năm gần đây, viết hồi ký
đã trở thành một cái mốt để người ta đổ lỗi cho nhau, khiến người đọc thấy hai chữ
Hồi Ký thì đã có ác cảm với tác giả, với tác phẩm.
Bên cạnh đó, bên cạnh những người dùng hồi ký để đổ lên đầu người khác những
thất bại, những tội lỗi, cũng có người muốn ghi chép lại một cách trung thực những
gì xảy ra cho mình, cho người nghĩa là họ muốn viết một cuốn hồi ký đúng nghĩa
với hai chữ hồi ký thì lại gặp một trở ngại khác, đó là những người liên quan đến
đời mình đang sống. Viết thật thì mất lòng mà viết dối thì lại không còn là hồi ký
nữa, không đạt cái tiêu chuẩn của mình, cái ước vọng của mình. Ở trường hợp này,
người ta lại theo cách người xưa: viết tiểu thuyết, viết truyện. Tiểu thuyết là thể
loại hư cấu, là những chuyện tuy có thể xảy ra nhưng lại không phải là đã xảy ra, vì
vậy dùng thể loại này vừa nói lên được sự thật về mình, về người một cách trung
thực mà lại không đụng chạm đến người. Nguyễn Thiếu Nhẫn đã chọn cách sau
cùng: viết tiểu thuyết. Vì vậy “Mưa Trên Sông Đồng Nai” tuy là tiểu thuyết mà
không phải tiểu thuyết hay đúng hơn là một tự truyện.
Như tác giả đã giới thiệu, nhân vật chính của Mưa Trên Sông Đồng Nai là Kha,
tuổi Kha bằng với tuổi của chiến tranh Việt Nam, từ 1945 đến … nay. Bối cảnh là
Biên Hòa, quê hương của Kha cũng là của tác giả, Saigon và rồi miền Bắc Việt
Nam.
Điều mà độc giả ghi nhận đầu tiên khi mới đọc trang đầu là tác giả viết rất thật, có
lẽ tác giả chủ trương không viết thì thôi, đã viết thì viết thật. Vì vậy mà có nhiều
chỗ trẻ nít không nên đọc hay là như “rate” của các phim tại Mỹ, cần ghi chú hai
chữ PG..
Như trên đã nói hoàn cảnh đất nước từ 1945 cho đến khi Kha vượt biên qua tới Mỹ
là một giai đoạn chiến tranh của Việt Nam. Kha sống trong bối cảnh đó lại “may
mắn” cho Kha là một đứa con nhà nghèo. Thực tình thì không phải gia đình Kha
nghèo mà thời cuộc đã đốt của gia đình này một ngôi nhà “ngói đỏ âm dương có
những cây cột to đến nỗi một người lớn không ôm hết một vòng tay, có thềm nhà
ba bậc cao khỏi ngực” và một vườn bưởi rất lớn – bưởi Biên Hòa, nhưng tiêu thổ
kháng chiến đã cướp đi ngôi nhà đó và một ngôi nhà thứ hai cũng bị thiêu rụi, rốt
cuộc, dù Kha là một đứa cháu đích tôn, con độc nhất nhưng đi học đôi khi phải
thiếu tiền trường.
Điều ghi nhận thứ hai là tuy Kha lớn lên, làm báo, viết lách, phục vụ trong Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa, phải đi tù Việt Cộng rồi vượt biên qua định cư tại Hoa
Kỳ, nhưng Kha vẫn giữ một thái độ ung dung, chỉ nói lên sự thật. Và chính vì nói
lên sự thật và vì là sự thật nên đã lột tả được tất cả những gì mà người Cộng Sản đã
làm trên đất nước Việt Nam suốt chiều dài nửa thế kỷ và cũng suốt cuộc đời của
Kha. Và cũng chính vì nói lên sự thật mà độc giả khi đọc “Mưa Trên Sông Đồng
Nai” đã thấy rõ đâu chánh, đâu tà. Chỉ có miền Nam mới dung chứa một đứa con
trai của một tên Việt Minh trong Quân Đội, lại giữ phần hành về tình báo. Gia đình
của Kha là một thảm cảnh của người dân phải sống và chiến đấu để bảo vệ tổ quốc
và đã vấp lầm quỷ kế của những kẻ phản bội.
“Mưa Trên Sông Đồng Nai” cũng diễn tả rất thực tình trạng xã hội miền Nam mà
tác giả đã sống từ lúc sinh ra cho đến khi bỏ nước ra đi, gần 50 năm trời. Ba lĩnh
vực mà Kha đã “may mắn” hay “rủi ro” sinh hoạt là giới báo chí miền Nam, Quân
Lực VNCH và tù đày sau năm 1975, nhờ đó, đọc “Mưa Trên Sông Đồng Nai”
chúng ta biết thế nào là cuộc chiến Việt Nam, thế nào là tù đày Cộng Sản, thế nào
là lòng yêu nước của người Việt Nam, và cách đối xử của “người bạn” Đồng Minh
“Mưa Trên Sông Đồng Nai” tuy là tự truyện nhưng không có một lời nào bào chữa
cho chính mình, mặc dù có những sự việc “lỗi lầm”, có những chuyện Kha phải
“cuốn theo chiều gió”, Kha vẫn trình bày rất thật, rất thực tế, có sao nói vậy người
ơi và để cho người đọc nhận xét và phê phán, có chăng thì cũng “người ta thường
tình” thôi. Ví dụ khi nói về cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Kha nhận xét: “Sau 9
năm cai trị miền Nam, ông Ngô Đình Diệm, một người yêu nước nhưng không nắm
vững thời thế, muốn loại bỏ ảnh hưởng Hoa Kỳ trên chính trường Việt Nam, đã
cùng với người em là ông Ngô Đình Nhu gánh lấy cái chết thảm khốc trong một
cuộc chính biến mà sau này ai cũng biết là do sự chỉ đạo của Hoa Kỳ với sự hợp
tác của bọn tướng lãnh phản phúc của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” (trang
155).
Ở một đoạn khác, Kha thuật lại tâm trạng của dân miền Nam khi tiếp xúc với “Xã
Hội Chủ Nghĩa của Bác Hồ”: “Có người đập lên vai: “Gặp vợ mà sao mặt mày bí
xị vậy?”. Kha quay lại trả lời Tường, vốn là một đại úy lái F.5, ở chung tổ với Kha:
“Bà vợ đưa tiền nói cơm tù ăn không nổi thì đi ăn… câu lạc bộ”. Tường cười hích
lên: “Ông già tôi còn đã nữa. Ổng mang cho tôi cái áo măng tô tôi mua ở bên Mỹ
lúc đi học lái máy bay Con Ma, nói mang vào mặc cho nó ấm. Phải nói mãi là
không có chỗ cất, ổng mới chịu mang về.” Nói chung, gia đình ai cũng biết đi cải
tạo là khổ sở, nhưng chẳng ai hình dung được cái khổ nó đến mức nào” (Trang
182). Đề cập đến một số người đón gió trở cờ, tác giả viết: “Chế độ Cộng Sản là
một chế độ vắt chanh bỏ vỏ. Những Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Nguyễn Ngọc
Lan, Lý Chánh Trung, Chân Tín… đã chỉ được dùng trong buổi giao thời. Tờ nhật
báo Tin Sáng sau đó đã phải đình bản sau khi làm tròn nhiệm vụ đánh bóng cho
chế độ mới.” (Trang 114).
Đọc “Mưa Trên Sông Đồng Nai” người ta cũng khám phá được một vài điều lý
thú. Một người dân thường như ông nội Kha, tuy không dài dòng văn tự mà chỉ nói
vài hàng đã diễn tả hết tâm trạng của người Việt Nam đối với Việt Minh Cộng Sản:
“…ông nội Kha nhận được tin báo từ “những người phía bên kia” thông báo Kha
có tên trong đoàn thiếu nhi được ra miền Bắc học tập vì người cha là liệt sĩ. Ông
nội vò nát tờ giấy báo tin trong tay, nói: “Thằng con tao nó hy sanh như vậy là đủ
rồi, tao không muốn cháu nội tao phải chết bờ, chết bụi như thằng cha nó.” (Trang
63). Có con đi theo Việt Minh chết, Việt Minh “ưu đãi” cho cháu nội ra Bắc học
tập mà ông già lại có một quyết định dứt khoát, vì ông ta đã biết Việt Minh là ai
sau khi đã là chứng nhân của 9 năm kháng chiến. Trong khi đó thì: “Phải hàng
chục năm sau, những Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín mới sáng mắt
ra để viết nhật ký Sống Thẳng, Nói Thực, để đọc kinh Sám Hối vì đã tiếp tay rước
kẻ cướp vào nhà.” (Trang 115).
Tác giả cũng rất vô tư khi viết về sinh hoạt xã hội miền Bắc: “Quán phở quốc
doanh có cô bán hàng mặt khó đăm đăm. Gọi hai tô phở. Cô bán quán múc nước
lèo đổ vào hai tộ phở đã bày sẵn thịt, mang ra. Hóa hỏi xin rau, giá. Cô bán quán
bèn bưng hai tô phở vào, vừa hất thịt qua một bên, bánh phở một bên, đổ nước lèo
vào nồi vừa nói: “Chả có rau, giá gì cả. Ăn thì ăn, không ăn thì thôi”. Sau này
Kha có hỏi những người sinh trưởng ở miền Bắc, được biết ở miền Bắc ăn phở
không có rau, giá. Nếu có chỉ là vài cọng húng quế. Có điều cái thái độ đối xử với
khách hàng của cô bán quán phở quốc doanh ở Hà Nội năm 1980 quả có điều khó
hiểu” (Trang 252)
Một đứa bé mới 5 tuổi đã thấy máu lửa, từ thuở ra đời cho đến khi được tin cha
chết chưa bao giờ thấy mặt người cha, 12 tuổi mẹ từ giã đi lấy chồng khác, chỉ
nương nhờ tình thương của ông nội. Thế mà Kha vẫn sống như những đứa trẻ khác
trong xóm Kỷ Niệm, vẫn học hành có thể nói đến nơi đến chốn, bởi vì “Định mệnh
là những điều đã sắp đặt sẵn mà con người không thể cưỡng chống lại được”.
(Trang 241). Nhưng không biết giữa định mệnh và hoàn cảnh xã hội, nơi con người
sinh ra và lớn lên, cái nào ảnh hưởng lên cái nào? Tình cảm, tình dục, tình yêu, sự
nghiệp con người bị ảnh hưởng của định mệnh hay hoàn cảnh? Cuộc đời tình dục
cũng như tình ái của Kha làm cho người đọc khó phân biệt được. Những điều mắt
thấy tai nghe từ tấm bé về tình dục ảnh hưởng tới con người ra sao, tình cảm được
un đúc ở xã hội miền Nam đã ảnh hưởng thế nào với đứa con trai sinh ra và lớn lên
theo chiều dài của cuộc chiến?
Đọc hết cuốn “Mưa Trên Sông Đồng Nai”, độc giả có dịp nhìn lại bản thân mình,
so sánh với cuộc đời của Kha, với hoàn cảnh đất nước Việt Nam, hiểu được Việt
Nam về người, về hoàn cảnh và định mệnh… của một con người Việt Nam để rồi
tự hỏi cuộc đời vui hay buồn, hạnh phúc hay chỉ là bể khổ và nơi mình sinh ra, lớn
lên, chứng kiến những gì đã xảy ra để rồi nhận chân được một điều Quê Hương
không phải giàu, đẹp mà được người đời mến mộ, thương nhớ, mà người ta yêu mến
Quê Hương mình vì… đó là Quê Hương, đó là nơi đã cưu mang mình, đã cho mình tất cả, kể
cả định mệnh.
KIÊM ÁI
Leave a Reply