Saturday, November 23 Bitcoin là gì? Có nên đầu tư vào bitcoin hay không?

Diễm Thi, RFA

2024.11.22
Ảnh minh họa cho thấy một phụ nữ phản đối nạn quấy rối tình dục
 AFP

“Làm hoa cho người ta hái, làm con gái cho người ta trêu” là thành ngữ quen thuộc tại Việt Nam, một quốc gia ảnh hưởng bởi Nho giáo từ hàng ngàn năm qua, mà ảnh hưởng tiêu cực của nó là tư tưởng trọng nam khinh nữ, gốc rễ của bạo lực giới.

Tháng 4 năm 2018, phong trào #MeToo lan đến Việt Nam từ câu chuyện của phóng viên báo Tuổi Trẻ tố bị một cán bộ của báo này hiếp dâm. Sau đó là câu chuyện trong giới giải trí của vũ công Phạm Lịch, Lê Hoàng Nga My, người mẫu Kim Phượng tố cáo tình trạng bị gạ tình, bị quấy rối tình dục, thậm chí bị hiếp dâm.

Phong trào chìm xuống nhanh chóng bởi nhiều trở ngại về mặt luật pháp và thành kiến xã hội. Nhưng nạn quấy rối tình dục thì ở lại.

Vấn nạn “khó nói”

Tháng 3 năm 2023, công ty truyền thông NOI chia sẻ bài viết dựa trên những khảo sát về sắc đẹp, hôn nhân, quấy rối tình dục, công việc… được chính phụ nữ Việt Nam kể ra. Kết quả cho thấy, gần 90% phụ nữ được khảo sát cho biết họ từng gặp tình trạng quấy rối tình dục, thậm chí khi còn rất nhỏ.

Đáng chú ý, hơn 60% số nạn nhân không tìm kiếm sự giúp đỡ vì không hiểu rõ đó là hành vi quấy rối; không biết phải phản ứng thế nào và không hiểu được chuyện gì đã xảy ra với mình. Cũng có những nạn nhân tìm kiếm sự giúp đỡ, nhưng chỉ 20% hài lòng với sự hỗ trợ mà họ nhận được.

“Tôi không đủ tin tưởng để chia sẻ với người khác. Tôi lo lắng về những gì họ sẽ nói và tôi không muốn ai biết chuyện đó, kể cả người thân. Nếu tôi chia sẻ về điều đó, mọi người cũng sẽ có xu hướng trách móc tôi. Và điều đó càng khiến tôi cảm thấy dễ bị tổn thương hơn”, bài viết dẫn lời một nạn nhân.

Điều này cũng được Tiến sĩ tâm lý Phạm Quỳnh Hương khẳng định với RFA. Theo bà, người phụ nữ sẽ bị áp lực xã hội và gia đình rất lớn khi nói ra chuyện bị lạm dụng tình dục cho người thân biết, hay chia sẻ trên phương tiện truyền thông. Có trường hợp gia đình tan vỡ vì người chồng không chịu nổi áp lực từ dư luận; cô gái trẻ không thể lấy chồng vì người yêu của cô không đủ can đảm bảo vệ cô khỏi những lời đàm tiếu…

“Theo tôi, chính quan niệm trọng nam khinh nữ dẫn đến chuyện người phụ nữ cam chịu không dám lên tiếng. Hơn nữa, tất cả các hành vi xâm hại tình dục ở Việt Nam đều không có bằng chứng hoặc bằng chứng bị che đậy bởi kẻ có quyền nên rất khó kiện cáo”, bà Phạm Quỳnh Hương kết luận.

Khi kẻ thủ ác có quyền lực

Vụ việc liên quan đến cận vệ của ông Lương Cường, nguyên thủ quốc gia Việt Nam, bị bắt khi đi bang giao ở nước ngoài dưới cáo buộc quấy rối tình dục, khiến nhiều người đặt câu hỏi về sự lính líu của người có quyền ở Việt Nam trong vấn nạn quấy rối tình dục.

Trên thực tế, tình trạng một người lợi dụng vị thế của mình để dụ dỗ hay cưỡng ép người khác tham gia vào hoạt động tình dục xảy ra trong mọi lĩnh vực, từ giới giải trí cho đến văn phòng, thậm chí cả trong môi trường học đường. Thầy Đỗ Việt Khoa, giáo viên tại trường trung học phổ thông Thường Tín – Hà Nội, khẳng định với RFA:

“Ngành giáo dục liên tục có những chuyện xâm phạm thân thể, tinh thần học sinh từ hàng chục năm nay mà mãi không chấm dứt. Tôi từng này tuổi mà còn bị chúng công khai để làm như thế, thì bản thân em học sinh yếu đuối như thế thì không biết làm cái gì?”

Rất nhiều câu chuyện được truyền tai nhau nhưng những nạn nhân thực sự vẫn chọn cách im lặng để bảo vệ chính mình. Nhà xã hội học Khuất Thu Hồng lý giải trên The Diplomat: “Ở Việt Nam, hiện tượng quấy rối tình dục một mặt được coi là vấn đề văn hóa hơn là vấn đề nhân quyền. Mặt khác, nó được chính trị hóa theo cách mà nếu nó diễn ra ở nơi làm việc thì sẽ có nhiều nhân tố liên quan. Và rồi sẽ có rất nhiều nỗ lực nhằm bịt ​​miệng nạn nhân hoặc che đậy những gì đã xảy ra.”

Chỉ người có quyền mới có thể chính trị hóa quấy rối tình dục nhằm mục đích bịt miệng nạn nhân.

Có thể nhắc câu chuyện nổi tiếng của nhà thơ Dạ Thảo Phương. Cách nay hai năm, bà đăng trên Facebook rằng bà từng bị Phó tổng biên tập báo Văn Nghệ Lương Ngọc An nhiều lần quấy rối tình dục trong quãng thời gian từ năm 1999 đến năm 2000, bất chấp những phản đối quyết liệt của bà. Sau đó bà cùng với sự làm chứng của nhiều người, đã tố cáo với lãnh đạo Báo Văn nghệ nhưng lời tố cáo đã không được giải quyết thỏa đáng.

Trao đổi với RFA, bà Dạ Thảo Phương cho rằng, những kẻ xâm hại tình dục, giống như những tế bào lỗi của xã hội, đã, đang và còn sẽ xuất hiện. Điều quan trọng nói lên sự văn minh là cách cộng đồng ứng xử với tệ nạn này ra sao. Bà nhấn mạnh:

“Khi những kẻ bị tố cáo là những kẻ có quyền lực, chức vụ trong một tập thể nào đó, hắn thường được dung túng, bảo vệ, thậm chí tẩy trắng, đổ đen sang cho nạn nhân. Hành động của kẻ xâm hại tình dục như mũi tên bắn vào nạn nhân, còn thái độ phớt lờ, bao che cho thủ phạm mới là cú nhấn vào đúng mũi tên đó, gây ra nỗi đau chí mạng cho họ. Tại sao các nạn nhân không lên tiếng tố cáo? Đó là một câu hỏi đau đớn với các nạn nhân và thân nhân của họ, cũng là một vấn đề đáng hổ thẹn với cả cộng đồng!”

 

 

Luật pháp lỏng lẻo

Ngoài yếu tố nhân quyền không được coi trọng, khía cạnh luật pháp không nghiêm cũng bị coi là yếu tố quan trọng khiến tình trạng lạm dụng tình dục không thể xóa bỏ tại Việt Nam.

Từng bị cưỡng hiếp không thành, phải chôn giấu trong im lặng thống khổ suốt 23 năm, phải tồn tại trên cõi đời này với rất nhiều khổ đau, mất mát, oan ức, nhà thơ Dạ Thảo Phương cho rằng, chuyện lạm dụng/quấy rối tình dục vẫn tiếp diễn ở Việt Nam do tính bất bình đẳng trong thói quen văn hóa lâu đời, tính thiếu thực tế trong quy định của pháp luật hiện hành, cho đến sự lạc hậu của nhận thức, sự xuống cấp của nhân tính, sự băng hoại của đạo đức trong mỗi cá nhân, và với nhiều người Việt, xâm hại tình dục là một vấn đề bị xem nhẹ, hoặc bị lờ đi.

Ngoài chuyện người lớn bị quấy rối tình dục, lạm dụng tình dục mà không thể lên tiếng, trẻ em lại là đối tượng bị xâm hại tình dục không ít ở Việt Nam. Trong báo cáo mang tên “Ra khỏi vùng tối: Tìm hiểu về phản ứng đối với xâm hại tình dục trẻ em” do Economist Intelligence Unite (EIU) thực hiện và được công bố hôm 16 tháng 1 năm 2019, Việt Nam đội sổ trong xếp hạng 40 nước về chống xâm hại tình dục trẻ em, cụ thể là thứ 37, với điểm yếu nằm ở thu thập dữ liệu, chế tài dành cho người phạm tội và sự can thiệp của truyền thông.

Con số từ Bộ Công an cho biết, năm 2018, có hơn 1.500 vụ xâm hại trẻ em, trong đó xâm hại tình dục chiếm 82%. Năm 2023, cả nước xảy ra gần 2.500 vụ xâm hại trẻ em, trong đó xâm hại tình dục trẻ em chiếm 82,2%. Những con số tự nó tố cáo tình trạng xâm hại tình dục trẻ em không giảm theo thời gian. Lý do được tờ The Guardian dẫn lời bà Rana Flowers, đại diện của Unicef tại Việt Nam giải thích:

“Việt Nam vẫn thiếu một khung pháp lý mạnh để bảo vệ trẻ em khỏi tất cả các hình thức bạo lực, đặc biệt là bạo lực tình dục. Đi kèm đó là việc thiếu các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ cho các nạn nhân”.

Năm 2017, một cháu bé 13 tuổi ở Cà Mau tố cáo hàng xóm xâm hại tình dục nhưng Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh này lại quyết định không khởi tố vụ án vì “không có tài liệu, chứng cứ”. Cháu bé bị mang tiếng với xóm làng đến mức phải uống thuốc tự vẫn. Năm 2015, một cháu gái 15 tuổi ở Đồng Nai đã phải uống thuốc độc tự tử khi bạn trai 22 tuổi tung clip quan hệ tình dục lên mạng.

Theo thống kê của các cơ quan chức năng, thủ phạm trong các vụ xâm hại tình dục trẻ em đa số là người quen, thậm chí thân thiết. Họ là người thân, người nhà với nạn nhân nên có nhiều cơ hội tiếp xúc, tiếp cận với nạn nhân rồi lợi dụng thời cơ thực hiện hành vi phạm tội.

Pháp luật Việt Nam hiện chưa xem lời khai của người bị xâm hại tình dục, đặc biệt của trẻ em là chứng cứ buộc tội mà cần phải có chứng cứ cụ thể, nên để xử lý được đối tượng phạm tội sẽ vô cùng khó khăn. Người bị xâm hại tình dục ở Việt Nam chưa ý thức được việc phải kêu cứu ngay khi bị lạm dụng, bị quấy rối, do điều này không được dạy từ môi trường học đường từ bé như ở các nước phương tây. Hơn nữa, tại Việt Nam vẫn còn nhiều gia đình cảm thấy ngượng ngùng khi nhắc đến vấn đề giáo dục giới tính.(RFA)

Share.

Leave a Reply