Saturday, May 4 Bitcoin là gì? Có nên đầu tư vào bitcoin hay không?
Đám đông văn nghệ sĩ Miền Bắc trước 1975 CÓ QUÁ ÍT PHAN KHÔI, DƯƠNG TƯỜNG, HỮU LOAN, HÀ MINH TUÂN, LƯU QUANG VŨ.. nhưng có quá đông Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Cù Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Khải.. kể cả Hoàng Cầm, Nguyễn Tuân!!!
Có thể kể thêm rất nhiều .. của “bên thắng cuộc” sau 30/4//1975.
HÃY CHỈ CHO XEM MỘT NGƯỜI/MỘT NGƯỜI THÔI ĐÃ LÊN TIẾNG ĐÚNG CHO VĂN HỌC MIỀN NAM TRƯỚC/SAU 30 /4/1975 – NGAY TẠI BÂY GIỜ?!! MỘT NGƯỜI THÔI CŨNG ĐỦ!
 

Dương Tường (1932-2023): Người nghệ sĩ chọn cái đẹp để đứng thẳng trong cuộc đời ‘bất an’

25 tháng 2 2023


Nhà thơ, nhà văn, dịch giả Dương Tường trong hình bìa một cuốn sách của ông

Nhà thơ, dịch giả Dương Tường (sinh năm 1932), vừa qua đời ở Hà Nội, để lại niềm thương tiếc

 lớn cho bạn bè văn nghệ sĩ Việt Nam.

Nhiều ý kiến chia sẻ trên mạng xã hội tiếng Việt từ hôm 24/02/2023 ca ngợi tài năng, và quan trọng hơn cả là nhân cách của ông Dương Tường, người đã sống qua những giai đoạn khó khăn nhất của văn nghệ sĩ tại miền Bắc Việt Nam sau Kháng chiến chống Pháp, và thời kỳ sau này.

Nhà báo Phạm Tường Vân, người từng phỏng vấn ông Dương Tường năm 2002 để ghi lại chân dung của một thế hệ đang dần mất đi, vừa viết trên Facebook cá nhân:

“Dương Tường là nhân chứng sống của một thời đại đầy biến động trong sử Việt. Ông từng cầm súng thời kháng chiến chống Pháp với biết bao lý tưởng, lại có bạn bè là tầng lớp tinh hoa của Hà Nội những năm chiến tranh và Đổi mới.

Những trí thức tinh hoa thập niên 1950- 1960 ngày ấy đều tài hoa, đam mê và trong sáng. Những người ít nhiều chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp, đề cao tự do sáng tác, phản tỉnh như nhóm Nhân Văn Giai Phẩmvà Xét Lại đều nhận về biết bao oan khuất – những bi kịch mà thời nay không thể nào hình dung nổi: người chịu mấy năm tù không án người phải bán máu nuôi gia đình. Ông Tường ngồi đó, chứng kiến bạn bè lần lượt bị người ta đến, mang đi.”

Nỗi sợ bị đàn áp ở những người như Dương Tường là thường trực, và “những ngày u tối đó, ông Tường luôn chuẩn bị sẵn một tay nải. Nhưng ngày ấy chưa bao giờ đến. Ông đã đón chờ nhưng nó không đến”, bà Phạm Tường Vân viết.

Có vẻ như vì không bị tù đày, cái “án thân thế, lý lịch” một thời hóa ra vẫn còn gắn với số phận dịch giả tài hoa cho đến khi ông tạ thế tuần qua:

“Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua. Từ tuổi thanh xuân cho đến nay, ông đã ở tuổi 92. Bởi vậy, khi bạn bè đã “mãn hạn”, đã được trả lại tự do, được phục hồi danh dự thì ông vẫn chưa. Đó chính là tảng đá đè nặng trong tim –điều ông luôn cảm thấy day dứt so với những bạn bè từng trải qua kiếp nạn của mình. Nỗi day dứt của một người tử tế.”

Di sản đồ sộ hiếm có với một cây bút ở Việt Nam cả đời mà ông Dương Tường để lại đã bao trùm cả mảng sáng tác tự do về thơ, họa, dịch văn chương nước ngoài, phê bình văn học và truyện ký.

Ông cũng trở thành người tạo cảm hứng cho nhiều người thuộc thế hệ trẻ hơn ông ở Việt Nam, ở hải ngoại và cả người nước ngoài qua các hoạt động bảy mươi năm với chữ nghĩa, tạo dựng nhiều “sân chơi” mới, đặt nền tảng cho không ít cuộc giao lưu nghệ thuật của Việt Nam với các nước.

Ông làm những việc đó trong khi không gian nghệ thuật – tư tưởng của gần 100 triệu người vẫn tiếp tục cần được mở ra để làm mới, tìm cái đẹp của riêng mình, đồng thời vẫn luôn giằng co, đối thoại với xu thế giám sát, áp chế chặt chẽ ở Thế kỷ 21.

Dương Tường chọn sự im lặng như một thủ pháp sống và chọn cái đẹp như nhãn quan riêng khi đối thoại với những điều xấu, nặng nề.

BBC News Tiếng Việt đăng lại bài phỏng vấn nhà báo Phạm Tường Vân thực hiện từ lâu với ông

Dương Tường nhưng chỉ mới giới thiệu trên Facebook cá nhân:

Phạm Tường Vân: Ông đọc sách rất nhiều, đọc “Phía Tây không có gì lạ” (Erich Maria Remarque) lấy

từ tay lính Pháp từ rất sớm. Điều đó không ngăn ông bước vào cuộc chiến với tư cách người cầm súng?

Dương Tường: Cho đến nay, tôi vẫn nghĩ – và vẫn khẳng định — Kháng chiến chống Pháp là thời kỳ hoàng kim của cách mạng Việt Nam. Nếu được sống lại thời đó một lần nữa, tôi vẫn hành động như cũ nghĩa là bỏ nhà đi bộ đội. Suốt những năm đi lính, tuyệt nhiên không hề có ý định rời quân ngũ. Có lần ốm trên đường hành quân vào chiến dịch, tụt lai sau cả tuần, đã quyết đuổi theo đơn vị bằng được. Đi bộ hơn 300 cây số từ Đô Lương (Nghệ An) đến Hoà Bình để tìm đơn vị mà không mảy may có ý định rẽ về thăm nhà.

Mỗi ngày chạy bộ gần 30 cây đuổi theo đơn vị, bị máy bay rượt suýt chết.

Đến chiến tranh chống Mỹ thì tôi phản tỉnh. Cho đến giờ tôi vẫn thấy chiến tranh chống Pháp là một thời kỳ tuyệt đẹp. Người ta sống với nhau đầy tình người.

Phạm Tường Vân: (Vụ) Nhân Văn là chuyến tàu chở sự vỡ mộng lớn nhất của văn nghệ sĩ- trí thức sau hoà bình lập lại. Nhóm xét lại: Vũ Thư Hiên, Dương Tường, Bùi Ngọc Tấn, Xuân Khánh, Mạc Lân… là chuyến tàuthứ hai. Có phải vì các ông đi theo kháng chiến nhanh quá, đi vì mỹ cảm chứ ông phải…?

Rất thành thật, hoàn toàn vì lý tưởng! Các thế hệ sau khó mà hiểu được cái không khí hồi đó. Say lắm. Không bao giờ có lại thời kỳ dám bỏ tất cả, dám đốt cả Hà Nội mà đi chiến đấu như thế.

Phạm Tường Vân: Thời kỳ ông tự đặt ra với mình nhiều câu hỏi nhất là bao giờ?

Những năm 60, sau vụ Nhân Văn, Xét Lại.

Phạm Tường Vân: Câu trả lời chung là gì?

Phải có một thế giới khác. Thế giới này đang hỏng. Thế giới này phải làm lại. Và mọi thứ chủ nghĩa đều là không tưởng, con người bịa ra thứ đó để mà dối lừa nhau mà thôi.

Phạm Tường Vân: Phản ứng của ông?

Tôi gần như bị tâm thần. Tôi phải tự chữa trị bằng nghe nhạc, chủ yếu là nhạc cổ điển. Tôi gọi đó là nhạc liệu pháp (musicotherapy)

Phạm Tường Vân: Thập niên 60 – 70 của thế kỷ trước, bi kịch ập đến với các ông. Trong khi các ông Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn đã bị gọi tên. Sao ông không bị bắt?

Nếu ở Hải Phòng hay một tỉnh nhỏ nào khác, chắc tôi có kết cục giống Bùi Ngọc Tấn. Thấy Vũ Thư Hiên, Kiến

Giang, Vũ Huy Cương “đi”, tôi, Mạc Lân, Xuân Khánh cũng khăn gói chuẩn bị đón khả năng xấu nhất. Nhưng chờ mãi không thấy bắt. Có lẽ họ bắt mấy người tiêu biểu. Mà bắt thế đã là quá nhiều rồi!

Phạm Tường Vân:Ông chuẩn bị những gì?

Ba lô, vài bộ quần áo, dăm quyển sách, nếu lọt thì có cái giải khuây.

Phạm Tường Vân: Ông trả lời với chính quyền như thế nào về những người bạn “khả nghi” của mình?

Câu trả lời luôn là: “Đó là những người bạn tốt nhất của tôi, thương tôi nhất. Có chặt đầu tôi đi thì tôi cũng không tin họ là người xấu!”

Phạm Tường Vân: Một điều khó hiểu là ông có thể chơi với những người rất “khắc” nhau. Ví dụ như Trần Dần với Văn Cao chẳng hạn, hai người từng chung nhóm Nhân Văn, ở chung một góc phố, vậy mà chẳng bao giờ giáp mặt?

Họ không chơi nhưng rất trọng nhau. Tôi rất thân với cả hai, tôi biết. Lần nào tôi đến chơi, Văn Cao cũng nhắc đến Trần Dần Và ngược lại. Dần bảo: “Thằng Văn nó chưa đẻ nhưng nó là voi, đẻ rất to!” Hôm đám tang Văn Cao,

 Trần Dần chống gậy đến ngồi như pho tượng. Giữa họ có những vướng mắc do thời cuộc chứ hoàn toàn không phải vấn đề tư tưởng hay quan điểm.

Phạm Tường Vân: Nhà văn Bùi Ngọc Tấn có một câu tổng kết buồn để biện minh cho những thành quả ít ỏi của thế hệ mình: “Thế hệ có tất cả. Vậy mà lại mất tất cả. Một thế hệ trắng tay”. Ông nghĩ sao?

Một thế hệ của những tinh hoa bị bỏ phí, bị hắt hủi và làm cho biến dạng. Nhưng bảo là ít đóng góp thì chưa chính xác: một vài người trong số họ cũng đã tạo ra một vài ảnh hưởng có tính tác động trong dòng chảy chung của văn học nước nhà. Và điều này thì gần như chắc chắn: “đó là thế hệ nhiều đam mê và trong trắng nhất”.

Phạm Tường Vân: Tôi nói điều này, xin ông đừng giận: có cảm giác: ông chưa vào tù nhưng ông chưa bao giờ được ra tù! Chẳng thà hồi đó người ta bắt ông, nhốt vài năm rồi thả, ông còn được hưởng niềm vui mãn hạn. Đằng này, lúc nào ông cũng sống trong cảm giác của những ngày chờ đợi.

Không đáp, chỉ gật đầu.

Phạm Tường Vân: Và lúc nào cũng “giật mình một cái vỗ vai”?

Dù là những lúc vui nhất, tôi cũng chưa bao giờ cảm thấy yên ổn. Tôi vẫn chưa thoát khỏi cái tâm thái bất an mà tôi gọi là angoisse khi nói chuyện với một nhà báo nước ngoài hồi đầu những năm 1980. Một thứ ám ảnh hồ như pre-apocalyptic, tiền-khải huyền, nơm nớp lo sợ một bất hạnh thình lình ụp xuống. Thấy cháu gái mình thông minh, 5 tuổi nói tiếng Anh như gió, ngữ điệu rất hay, hạnh phúc lắm nhưng ngay lập tức cái angoisse ấy lại ập đến. Xã hội đầy bất trắc,cái gì chờ nó ngay mai?

Tôi còn có một thói quen xấu: tích trữ giấy một mặt. Xưa kia toàn viết giấy xám xịt, có được tờ giấy trắng (như giấy A 4 bây giờ) hoặc pơ-luya là quý như vàng, bình thường không dám viết, chỉ dành cho dịp nào thật đặc biệt, chẳng hạn khi làm được bài thơ nào thật ưng ý mới dám trịnh trọng chép lên. Tôi giữ lại tất cả giấy loại, cái nào còn trắng một mặt là giữ lại, mặc dầu rất hiếm khi dùng đến. Dù bây giờ viết bằng máy tính nhưng cứ phòng sẵn 5- 6 cái bút mới yên tâm. Và tăm nữa. Trong túi lúc nào cũng thủ sẵn một cây (ông móc túi lấy ra cây tăm tre!). Hoàn toàn vớ vẩn, những cái đó! Giấy bây giờ đầy, tăm thì đâu chẳng có. Chẳng qua sống trong cùng quẫn quá lâu nên thành một tâm lý lúc nào cũng lo thiếu thốn, sợ khi hữu sự, không có cái mà dùng!

Phạm Tường Vân:Dường như ông trốn vào những lĩnh vực ít phải bày tỏ chính kiến, những lĩnh vực khá khó tiếp cận đối với các nhà chức trách để ít bị bắt bẻ như hội họa. Và lựa chọn khôn ngoan này khiến ông còn “lành lặn” đến bây giờ? Cũng nhờ vậy mà ông cũng góp phần tạo nhiều sân chơi quốc tế cho hội họa đương đại Việt Nam vào cuối thế kỷ 20.

Đúng. Tôi tự bảo mình: kiềm chế đi một tí, và ráng làm mỗi thứ một tí, cố gắng kiễng chân, cố gắng nhích lên. Mỗi người ráng ghé vai đẩy từng milimét, từng phần của milimét, làm sao để thế giới phải khác đi.

Phạm Tường Vân: Ở nhà, ông là người thế nào?

Ở nhà tôi luôn bị mắng vì tội ăn dè làm vợ con phát bực. Cả đĩa thịt, tôi chỉ chọn mấy miếng nhỏ. Lúc nào cũng cảm thấy mình có lỗi. Mình nuôi con không bằng người. Chỉ được về mặt văn hóa, còn những cái khác thua kém hết. Đôi lúc thấy cháu mình được nuôi nấng đầy đủ, thấy vui lắm nhưng chỉ một lúc cái angoisse lãi đến. Điều này chẳng đứa con nào của tôi hiểu được.

Phạm Tường Vân:Trong cuốn “Rừng xưa xanh lá”ông Bùi Ngọc Tấn “tố” ông là người đầu têu rủ bạn bè văn nghệ sĩ trí thức đi bán máu nuôi gia đình?

Tôi chỉ rủ Mạc Lân và Châu Diên thôi.

Hồi đó tôi được ưu ái cấp cho một cái thẻ cho máu (viết tắt là TCM) tức là được công nhận là cộng tác viên cho máu thường xuyên của bệnh viện. Mỗi lần bán máu, ngoài tiền (50 đồng 100cc), còn được cấp các phiếu đường, thịt, đậu. Tôi mang tất về nộp vợ.

Phạm Tường Vân: Ông đã bán bao nhiêu lít máu tất thảy?

Không thể tính được. Hơn một năm, cứ hai tuần 1 lần, trung bình 250 cc. Lúc cấp bách thì tuần/lần, lần đạt “kỷ lục” nhờ Lê Phát giới thiệu với trưởng phòng huyết bệnh viện Việt-Đức thì được ưu tiên bán 300 cc.

Phạm Tường Vân: Hồi đó ông nặng bao nhiêu?

Hơn 40 kg.

(Lúc kết thúc cuộc phỏng vấn, ra phố Hàng Bài, ông cân thử, kết quả: 53 kg cả giày lẫn áo bông, thế mà vẫn cái hơncái thời bán máu hẳn 12 kg!)

Vụ này, Bùi Ngọc Tấn tưng tửng kể: “Tường ăn mừng thắng lợi với Phát bằng một bữa bia hơi Cổ Tân. Phái hai vại,

Tường một vại. Uống xong, Phát nói một câu xanh rờn làm các bàn khác quay cả lại: «Hôm nay tao uống máu thằng Tường!”

Phạm Tường Vân: Ngoài bán máu ra, ông còn có những cách nào khác để qua cơn bĩ cực?

Cũng có một số cách khác tuy không đàng hoàng lắm nhưng lương thiện: Vợ Mạc Lân là nhân viên mậu dịch bán ở quầy thuốc. Tôi đi khám bệnh, xin đơn, đưa ra vợ Lân ghi hóa đơn từng ấy thứ thuốc rồi đem về cơ quan thanh toán, cộng cả tiền bồi dưỡng ốm. Bệnh thật, chỉ có chữa là giả. Mà với những cơ thể suy dinh dưỡng trầm trọng của chúng  tôi hồi đó, chẳng lúc nào thiếu bệnh. Một cách nữa là bán thuốc lá cho căng-tin, tiêu chuẩn công đoàn chia mỗi người được 3-4 bao mỗi tuần theo giá cung cấp, cố nhịn dành được 2 bao đem ra bà hàng nước. Bán cũng không dễ, phải phục cho đến khuya, vắng vẻ mới dám thò thuốc ra.

Tôi nghiện thuốc nặng nhưng chỉ dám hút thuốc lá cuộn, trong gạt tàn chẳng có cái đầu mẩu nào vì tất cả đều được gom gop tích lại, lúc bí đem xé ra vấn đi vấn lại. Cách nữa là tranh thủ nhịn cơm tiêu chuẩn, bớt được bữa nào thì bớt, dư ra phiếu nào bán lại cho nhà bếp lấy tiền đưa vợ đong gạo. Đến nhà người thân tình cứ nhè vào bữa cơm. Chuyện văn chương, triết học cứ đến bữa lại nở như ngô rang, bà chủ bưng cơm lên, mời rơi mình một tiếng. Lấy cớ nói nốt câu chuyện, vừa ăn vừa “làm khách” để giữ sĩ diện nên chỉ dám làm một bát. Thôi thì cầm hơi cho qua ngày, vợ con cũng đỡ được một suất. Nhưng xong rồi thì ngượng lắm!

Phạm Tường Vân: Có khi nào ông ước mình là công dân nước khác?

Khi sang Mỹ, tôi thấy đây quả là một đất nước của tự do và có cảm giác là nếu ở đó, mình sẽ làm được nhiều hơn. Nhưng chưa bao giờ tôi ước mình là công dân một nước khác. Tôi không thể sống được ở một nơi nào ngoài Việt Nam.

Phạm Tường Vân: Đã bao giờ ông có ý định tự sát?

Không bao giờ.

Phạm Tường Vân: Khi cực kỳ phẫn uất hay khinh bỉ, ông hành xử thế nào?

Dương Tường Im lặng.

Phạm Tường Vân: Khi thất vọng về ai đó?

Không chơi nữa. Có những người ngay từ đầu đã không chơi được

Phạm Tường Vân: Cảm giác đỉnh cao của sự “không chơi được”?

Buồn nôn.

Phạm Tường Vân: Ông đã gặp mấy người như thế?

Nhiều. Xin đừng bắt tôi phải nêu tên.

Bài do nhà báo Phạm Tường Vân thực hiện ngày 23 tháng chạp Nhâm Ngọ 2001-2002. (Tin BBC)

—————————————————————–

Nhà văn Thuận nói về Trần Dần (video)

Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2023

Vĩnh biệt nhà thơ – dịch giả Dương Tường

Nhà thơ – dịch giả Dương Tường, thành viên Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam, cộng tác viên của Văn Việt, đã từ biệt chúng ta vào lúc 20 giờ 8 phút ngày 24/2/2023 tại Hà Nội.

Cả cuộc đời say mê, tận tuỵ, hết tâm lực với CHỮ, ông đã góp phần quan trọng mở ra đại dương văn học thế giới cho người đọc Việt Nam, đã sáng tạo thi pháp ÂM BỒI trong thơ Việt. Kiến thức uyên bác của ông về các bộ môn  nghệ thuật đã góp phần thúc đẩy sự cách tân, hiện đại hoá trong nghệ thuật Việt Nam, nhất là trong hội hoạ.

Nguyện “ĐỨNG VỀ PHE NƯỚC MẮT”, ông đã sống trọn vẹn con người mình, với trái tim rộng mở cho những người yếu thế và những người trẻ trên con đường sáng tạo gian nan. Ông là người bạn chân thành của đông đảo người sáng tác.

Văn Việt vô cùng thương tiếc nhà thơ – dịch giả Dương Tường. Xin thành kính phân ưu cùng tang quyến.

Nhân đây, xin trân trọng giới thiệu một bài viết về quan niệm Thơ cùng một số bài thơ của Dương Tường.

VĂN VIỆT

Ai đầu tiên gọi chích chòe là chích chòe?

Tháng 11/1995, trong chuyến thăm trường Đại học Columbia ở New York, tôi có dịp gặp P. Gordon, một nhà nghiên cứu Việt Nam học. Thật là một ngạc nhiên thú vị được bàn luận về thơ Việt Nam với một người Mỹ trên đất Mỹ.

Trong cuộc trò chuyện, Gordon hỏi tôi đôi điều liên quan đến “cây diêu bông”: nó thuộc họ thực vật nào, hình dáng ra sao? tên khoa học của nó là gì? v.v. Bởi lẽ ông đã đọc và đã mê bài thơ Lá diêu bông của Hoàng Cầm và, cũng như khá nhiều độc giả khác, nhất định tin rằng có một loài cây gọi là “diêu bông” thật trong thiên thiên. Ông nói đã tra tất cả các loại từ điển tiếng Việt mà không ra. Tôi bèn nhân danh là bạn của nhà thơ xin lỗi đã để ông mất công đuổi theo một cái bóng bởi lẽ loài cây bí ẩn kia chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của nhà thơ mà thôi. Diêu bông, tôi giải thích, thuộc loại từ “bịa”, tương tự như nonce-word (từ đặt ra để dùng trong một trường hợp đặc biệt) của Anh/Mỹ, nó còn quá mới để được đưa vào từ điển “chính quy” trong tình hình ngành từ điển học sơ sinh của Việt Namchưa phát triển đủ mức để soạn ra những từ điển đặc chuyên kiểu Dictionary of Nonce-words của Anh/Mỹ hoặc Dictionaire des Neologisines của Pháp.

Do đâu mà nẩy ra cái từ diêu bông phi ngữ nghĩa song lại đầy biểu năng trực cảm ấy? Nói cách nào đó, diêu bông không biểu nghĩa, mà chủ yếu là biểu âm. Một trong những đặc thù của cái đẹp nơi chữ thơ, tôi nghĩ, là sự lên ngôi của con âm thay vì con nghĩa. Hãy một lần nữa nghe bà cô tổ Hồ Xuân Hương của chúng ta biểu âm sự nứt ra của một động Hương Tích:

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm

Cái động từ phòm (hình như chỉ được dùng hai lần trong thơ Hồ Xuân Hương, ngoài ra không gặp ở đâu khác) cũng thuộc loại từ “bịa” phi ngữ nghĩa mà biểu năng trực cảm của nó kỳ diệu đến nỗi ai cũng hiểu tác giả định nói gì. Không có khả năng như tạo hóa “bịa” ra, chẳng hạn, một động Hương Tích thì nhà thơ “bịa” ra chữ! Những chữ tinh khôi tự nhiên như bản thân sự sống, vừa ra đời đã trở thành những thực thể.

Thi sĩ, tôi quan niệm, là kẻ đầu tiên kéo thế giới ra khỏi vùng khuyết danh. Mà khuyết danh có nghĩa là chưa tồn tại.

 Thi sĩ cho sự vật một cái tên mà trước đó nó chưa có – tức là đưa nó vào tồn tại. Ai đầu tiên gọi chích chòe, khi nó còn khuyết danh, là chích chòe, người ấy đích thị là một nhà thơ. Loài chim ấy ắt đã có từ rất lâu trước đó, người ta hẳn đã nhiều lần thử đặt cho nó một cái tên nhưng không đậu và chỉ đến khi ai đó, trong một lóe chớp thần hứng, bật thốt lên hai âm tiết chích chòe trúng pắp, không gì thay thể nổi, thì nó mới thực sự tồn tại, thêm cho trời đất một cái gì không chỉ đơn thuần là một loài chim.

Hoàng Cầm đã “bịa” ra một loài cây cho ai kia bỏ một đời đi tìm lá dẫu biết chẳng bao giờ thấy được. Hư ảnh đã ngự vào đời thực, trở thành một thực thể trường tồn, chí ít cũng dài lâu hơn đời nhà thơ.

 

THƠ DƯƠNG TƯỜNG

Tôi đứng về phe nước mắt


1968

        Romance 1

 những ngón tay mưa
dương cầm trên mái

những ngón tay mưa
kéo dài tai quái
một nỗi nhớ siêu hình
nhạc nhoè đường xanh
đêm lập thể

những ngón tay mưa
truồi theo phố lạnh
màu nâu cảm tính
đường parabole tư duy
điệp khúc u hoài
những chuyên tàu di

những ngón tay mưa
trời sao bạc
tím mộng Scheherazade
đêm ngàn-lẻ-hai

ngã tư
cột dèn
ô kính
những ngón tay mưa
xập xoè kỉ niệm

em
mười chín
mưa
bụi sao

ngả nghiêng trời nào
một chớp mi
thăm thẳm

*

đừng hát nữa em
những ngón tay mưa
những ngón tay mưa…


1963

 Noel 2

 Nôel
đèn
môi em
za em
jêruzalem
pha phem
hang/hem Ðức Mẹ
jọt
jọt
hé he
mùi quen
mà quên

Nôel
bụi sáng
bạch lạp ngực rằm
năm nắm
ngực rằm
nem nén
ngực rằm
bạch lạp
Avê
Mariem

mười bảy
đồng trinh
hai mươi
đồng trinh
phi lí
đồng trinh
chuông           

lá khói

chìm

requiem
mưa nhem
lọ lem
hài em
phi lí
bạch lạp ngực rằm
sao Bethlê-em
để
chuông            lá khói
chìm

*

Nôel
Nô-elle
Nô-em
trót quen
thành quen

phố nêm
phonème
kèm kem
đèn ren
đùi ren
lụa len
phố nêm
mà im
thèm
men

nhá nhem
lối khói
lá khói
bohème
boong
boong
chuông em
lá khói
thèm em
thềm êm
đường đêm
tràn im
khuya thêm
rộng thêm
mùi thêm
buồn thêm

sao em
phi lí
ngực rằm
phi lí
đồng trinh
phi lí
kèn đen
tình đen
tình điên
pòm pem
mưa đêm
cột đèn
chờ em
mõm dêm

Nôel
Nô-elle
Nô-em
Nô-men
No man’s land
N-mô m-nen x-len
leng beng
lang ben
ma lem
Mariem
x-em x-em
hem em
đồng trinh
Amen

1967

  Tình khúc 24

24 phím cầm chiều
24 nhành sương mím
24 tiếng ve sầu đại lộ tháng tư

Gửi lại em
cầu thang 24 bậc
tờ thư 24 gác mưa
làn menuet 24 âm xưa

Gửi lại em
mùi hoa sữa 24 miền hoài niệm
ga khuya 24 lần đưa đón
bài huê tình 24 lối sân sau

Gửi lại em
doi sông 24 nhịp cầu
tình khúc bãi ngô 24
sương dâng 24 nẻo đi về

Nhâm nhâm 24 hàng đèn
mênh mênh 24 ngã tư mắt

Gửi lại em
chiêm bao 24 chợt hiện tan
cung đàn 24 lần đứt nối
vũng im đêm 24 mạy sao chìm

Gửi lại em
24 phố dài thơm
24 xêrênađ
24 vibratô
24 khung trời tím
24 lối công viên
24 vầng trăng goá

Gửi lại em
gửi lại em tất cả
kể cả con âm đầu trót thụ mầm thơ

Riêng đêm em xoà bóng nốt ruồi
24 quầng

anh giữ

1967

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc thành bài hát cùng tên.

  Chợt thu

 một thoáng rợn tên là heo may
một hương cây tên là kỷ niệm
một góc phố tên là hò hẹn
một nỗi nhớ tên là không tên


1968

  Chợt thu 2

 Chiều se sẽ hương
Vườn se sẽ sương
Đường se sẽ quạnh
Trời se sẽ lạnh
Người se sẽ buồn

1969

  Serenade 3

 Chờ em đường dương cầm xanh
dạy thì nõn dương cầm phố

Chờ em đường dương cầm sương
chúm chím nụ dương cầm biếc

Chờ em đường dương cầm xiêm
vằng vặc ngực dương cầm trinh

Chờ em đường dương cầm khuya
ôi cái im đêm thơm mọng

Chờ em đường dương cầm trăng
ứa nhuỵ lạch dương cầm xuân

Chờ em đường dương cầm mưa
giọt giọt lá buồn dạ khúc
xào xạc lòng tay khuya

anh về lối dương cầm lạnh


1973

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc thành bài hát Dương cầm lạnh.
 

 America

 I call you Miss Diagonal, babe

*

I met you, Miss Diagonal
in Broadway
the only artery which runs diagonal
in the whole grid-like Manhattan
and I realize
you’re Broadway so mesmerisingly long

*

I look at America
through
your perversely di tenderness
your vulnerably    a     gynecology
your frustratingly     g      sensuality
your waywardly            o       friendliness
your hopelessly                 n        dynamism
your puzzlingly                      al         pussy

*

I met you, diagonal girl
in diagonal Broadway
and I realize
you’re America


8/11/1995
New York City

A-mê-ri-cơ

 bé em à, tôi gọi em là Nàng Chéo

*

tôi đã gặp em, Nàng Chéo
ở Broadway
con đường duy nhất chạy xiên chéo
trong cả khu Manhattan ngang dọc bàn cờ
và tôi chợt hiểu
em là Broadway
dài đến lạc hồn

*

tôi nhìn nước Mĩ
qua mềm mại em phi lí   chéo
qua phụ khoa em hơ hớ      chéo
qua nhục dục em ngao ngán    chéo
qua thân tình em ngạo ngược       chéo
qua  năng  động  em   vô  vọng           chéo
qua    nụ   bè   he   em   bối    rối               chéo

*

tôi đã gặp em, kiều nữ chéo
ở đường chéo Broadway
và tôi chợt hiểu
em là a-mơ-ri-cơ


New York City 8/11/1995

Bản dịch của tác giả.

  

Mea culpa (trích tổ khúc 5 chương)

 

Ðâu phải tại tôi
a ——————– z
tôi đâu chọn
buổi sinh

nào ai hỏi tôi í kiến trong ti tỉ vi ti
vu trụ chiều zọc – zài – ngang – đáy
thẳm không /thút lút/ bến sương quên

tôi mắc vào bẫy sống
để tháng ngày thây lầy một cục thịt
thừa là nỗi nhớ ngược hoang sơ thuở
còn đủ zại khờ để biết tắm mát lên
ngọn con sông thơ (iếm) đào


vẫn ngày
lại ngày

nhật trình zài

Ðâu phải tại tôi
a ——————- z
tôi đâu chọn

                 e
k ể   c ả     o     m i ề n
                  i
                 a

cửa sổ một mảnh trời mất máu zòm
tôi ngồi chênh xà-lim-án-sống
bầy nhầy từng vũng ảo vọng kiệt cạn
màu mận chín
và áp thấp nhiệt đới tâm linh
chân jường lạnh

đâu phải tại tôi…

 

Share.

Leave a Reply