Thursday, May 2 Bitcoin là gì? Có nên đầu tư vào bitcoin hay không?
October 12, 2022
Trần Doãn Nho/Người Việt

KENNEDALE, Texas (NV) – Ernest Miller Hemingway là một trong số ít những nhà văn lớn của Hoa Kỳ đã từng đoạt cả giải Pulitzer (1953) lẫn Nobel Văn Chương (1954).

Nhà văn Ernest Hemingway (1899-1961) với các binh sĩ Mỹ năm 1944. (Hình: Central Press/Getty Images)

Nhiều tác phẩm của ông được xem thuộc loại kinh điển của văn học Mỹ, vừa được những nhà nghiên cứu văn học đánh giá cao và vừa được quần chúng thuộc mọi giai tầng thích thú.

Một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Hemingway là “A Farewell to Arms.” Đây là tác phẩm thứ ba và là là tác phẩm đã củng cố vị trí của ông trên văn đàn, đồng thời mang lại cho ông thành công cả về danh tiếng lẫn tài chính. Tác phẩm này đã từng được dịch sang Việt Ngữ ở miền Nam Việt Nam trước 1975 là “Vĩnh Biệt Chiến Trường,” dịch giả là Nguyễn Lương Sắc, do nhà xuất bản Gió Bốn Phương xuất bản năm 1967. Ở trong nước hiện nay, có bản dịch của Giang Hà Vị và Nguyễn Tuấn Khanh với tên “Giã Từ Vũ Khí.”

Xoay quanh “A Farewell to Arms” có nhiều chi tiết khá lý thú, từ tựa đề cho đến cốt truyện và những chuyện linh tinh khác.

Tựa đề

Tác phẩm gần như lấy nguyên văn từ tựa đề của một bài thơ trữ tình vào thế kỷ thứ 16 của George Peele: “A Farewell to Arms (to Queen Elizabeth)” qua đó, một hiệp sĩ than thở rằng anh ta quá già, không thể mang vũ khí để bảo vệ Nữ Hoàng Elizabeth được. Ấy thế mà, theo các học giả, không có bằng chứng nào cho thấy là Hemingway đã từng biết đến bài thơ.

Tựa đề chỉ được Hemingway chọn về sau này, sau khi sửa đi sửa lại bản thảo nhiều lần để xuất bản, theo họ. Do đó, nó không ảnh hưởng gì đến cách viết và nội dung tác phẩm, vốn chỉ nói về tình yêu, chiến tranh và trách nhiệm.

Văn phong

Với ý định muốn độc giả trải qua hiện thực sống động của chiến tranh y như họ sống trong đó, Hemingway sử dụng một lối văn giản dị và ngôn ngữ dễ hiểu, loại bỏ những tính từ và trạng từ không cần thiết.

Để gây cho độc giả các cảm giác trực tiếp, ông thường sử dụng những mệnh đề tường thuật ngắn và dùng nhiều liên từ “và” (and). Chẳng hạn: “It came very fast and the sun went a dull yellow and then everything was gray and the sky was covered and the cloud came on down the mountain and suddenly we were in it and it was snow.” (Tạm dịch: Mây kéo đến rất nhanh và mặt trời chuyển sang màu vàng xỉn và sau rồi mọi thứ trở nên xám xịt và bầu trời bị che phủ và mây từ trên núi xuống và đột nhiên chúng tôi ở trong đó và tuyết rơi).

Câu kéo trông có có vẻ dài dòng, luộm thuộm. Tuy nhiên, theo Mark Looi, trong bài “On Hemingway’s ‘A Farawell to Arms,’” thì đó là nghệ thuật kể chuyện của Hemingway. Chữ “và” (and) đóng vai trò như những chướng ngại vật, truyền đạt hành động vừa ở chính những con chữ, lại vừa ở trong hình thức của chữ. “Xuyên qua tác phẩm, ông vận dụng ngôn ngữ để miêu tả câu chuyện nằm bên ngoài ý nghĩa của chữ.” Hemingway cho biết ông bắt chước nhạc sĩ Johann Bach khi viết nhạc, bằng cách lập đi lập lại chữ để tạo âm điệu.

Các đối thoại trong truyện rất sống động. Ông diễn tả lại cách ăn nói của người lính ngoài chiến trường y như chúng diễn ra trong thực tế: thẳng thắn, bộc trực, lắm khi tục tằn, thô lỗ. Chính vì thế, khi cho đăng trên báo hay in thành sách, nhà xuất bản yêu cầu ông bỏ bớt đi một số hoặc, nếu không, thay vào đó bằng những gạch ngang, để độc giả khỏi bị dị ứng. Tuy nhiên, trong những ấn bản đầu tiên của riêng ông, ông dùng bút ghi lại nguyên văn những chữ đó khi gửi tặng bạn bè, thân hữu. James Joyce, con chim đầu đàn của chủ nghĩa hiện đại trong văn chương, có một bản “A Farawell to Arms” như thế, với lời đề tặng của Hemingway.

Nhà văn Ernest Hemingway và bà Mary Welsh, người vợ thứ tư, chụp hình năm 1948. (Hình: Keystone/Getty Images)

Đăng báo và xuất bản

“A Farewell to Arms” được viết đi viết lại và sửa chữa trong vòng 15 tháng. Trước tiên, tác phẩm được đăng trên tạp chí định kỳ “Scribner’s Magazine” từ Tháng Năm và Tháng Mười, 1929. Hemingway được trả $16,000 tiền tác quyền, một số tiền khá lớn được trả cho tiểu thuyết đăng từng kỳ vào thời đó.

“Scribner’s Magazine” là một tạp chí tương đối phổ biến với lượng phát hành trung bình hằng năm vào khoảng 70,000 ấn bản. Tuy nhiên, khi cho đi truyện “A Farewell to Arms,” số lượng tiêu thụ bị giảm sút rõ rệt vì độc giả cho rằng ngôn ngữ sử dụng quá dung tục với nhiều cảnh làm tình lộ liễu, mặc dù tòa soạn đã loại bỏ khá nhiều đoạn và chi tiết nhạy cảm.

Tệ hơn nữa, tạp chí còn bị cấm bán ở Boston, Massachusetts, một trong những thành phố vốn được xem là tiến bộ so với nhiều nơi khác ở Hoa Kỳ. Lên tiếng bênh vực cho tác phẩm, “Scribner’s Magazine” cho rằng, “sự cấm bán tạp chí ở Boston là một bằng chứng cho thấy sự sử dụng kiểm duyệt sai trái căn cứ trên một số đoạn, mà không dựa trên hiệu quả và mục đích của tác phẩm như một toàn thể.” Tác phẩm không phi luân mà cũng không phản chiến, theo lời tòa soạn.

Tuy nhiên, khi được xuất bản như một tiểu thuyết ở Hoa Kỳ vào Tháng Chín, 1929, “A Farewell to Arms” lại được công chúng nồng nhiệt chào đón. Chỉ trong vòng 12 tháng, 100,000 ấn bản đã được bán sạch.

Tờ New York Times cho đó là một tác phẩm “cảm động và hay;” tạp chí “Times Literary Supplement” ở London cho tác phẩm “một truyện tuyệt vời” và tác giả là “một nghệ sĩ đầy tài năng và độc đáo.”

Tuy nhiên, tác phẩm không được đón nhận như vậy ở Ý. Nhiều người Ý bất bình vì tác phẩm đã diễn tả sự thất bại của quân đội Ý ở chiến trường Caporetto.

Chế độ phát xít Benito Mussolini cấm hẳn truyện. Sự cấm đoán này một phần nằm ở chỗ xung khắc cá nhân giữa Hemingway và Mussolini. Số là nhiều năm trước đó, năm 1923, trong một bài viết đi trên tạp chí “The Toronto Daily Star,” Hemingway gọi Mussolini là một “kẻ bịp bợm hàng đầu ở Âu Châu” (a biggest bluff in Europe). Gần 20 năm sau đó, 1948, tác phẩm mới được phép phát hành ở Ý.

Kết thúc truyện

Phần kết thúc truyện “A Farewell to Arms” cũng thường được mang ra bàn tán và thảo luận trong văn giới, vì nó đã được tác giả thay đổi nhiều lần, vui buồn khác nhau, từ những đoạn khá dài cho đến chỉ còn vài tiểu đoạn, trước khi chính thức xuất hiện trên báo.

Trong một cuộc phỏng vấn với George Plimpton trên tạp chí The Paris Review vào năm 1958, Hemingway cho biết, ông đã viết đi viết lại (những) trang cuối cùng của truyện đến… 39 lần trước khi cảm thấy thỏa mãn. Tuy nhiên, theo thông tin từ tờ New York Times, Sean Hemingway, cháu nội của Ernest, trong quá trình nghiên cứu tuyển tập các tác phẩm của nhà văn tại bảo tàng và thư viện Tổng Thống John  F. Kennedy ở Boston, đã tìm thấy thêm tám cái kết thúc khác, nâng tổng số câu kết thúc của tiểu thuyết “A Farewell to Arms” lên… 47 lần.

Sau đây là câu kết chính thức: “But after I had got [the nurses]out and shut the door and turned off the light it wasn’t any good. It was like saying good-bye to a statue. After a while I went out and left the hospital and walked back to the hotel in the rain.” (Tạm dịch: Nhưng sau khi tôi đưa [các y tá] ra ngoài và đóng cửa và tắt đèn thì mọi chuyện không ổn chút nào. Nó giống như nói lời tạm biệt với một bức tượng. Một lúc sau tôi ra ngoài và rời khỏi bệnh viện và đi bộ về khách sạn trong mưa).

Mới đây, năm 2012, nhà xuất bản Scribner tái bản tác phẩm với 47 kết thúc khác nhau, cộng thêm kết thúc trong lần xuất bản đầu.

Nhà văn Ernest Hemingway ngồi uống rượu vào khoảng những năm 1960. (Hình: Fotosearch/Getty Images).

Hư cấu và hiện thực

“A Farewell to Arms” được kể ở ngôi thứ nhất (tôi), cốt truyện không có gì phức tạp. Trong thời gian phục vụ chiến trương Ý thời Đệ Nhất Thế Chiến, viên thiếu úy Mỹ Frederic Henry bị thương nặng, được mang đến một bệnh viện ở Milan để điều trị. Ở đó, anh gặp cô y tá Catherine. Cô chăm sóc anh cho đến khi lành.

Hai người yêu nhau. Catherine có thai nhưng không chịu lấy Henry. Sau khi trưởng bệnh viện khám phá thấy Henry giấu rượu trong bệnh viện, Henry bị gửi trở lại mặt trận. Lúc này, tinh thần quân đội Ý sa sút. Trong cuộc triệt thoái của quân đội Ý sau trận đánh thất bại ở chiến trường Caporetto, Henry đào ngũ. Trở lại Milan để tìm Cetherine, Henry biết rằng Catherine đã được chuyển tới Stresa, một nơi cách Milan 95 km. Henry đi tàu hỏa đến đó, đoàn tụ với Catherine.

Sau đó, ngụy trang thành những sinh viên đi nghỉ Đông, cả hai trốn khỏi Ý bằng cách vượt biên giới qua Thụy Sĩ, lúc bấy giờ là một nước trung lập. Họ sống những ngày tháng hạnh phúc trong một ngôi nhà gỗ ở Montreux. Một đêm, Catherine chuyển bụng đẻ. Cả hai đi taxi dến bệnh viện. Sau một thời gian dài chuyển bụng khó khăn, cuối cùng, Catherine sinh được, nhưng đứa bé bị chết non. Và Catherine, sau đó, bị xuất huyết và chết bên cạnh Henry, mà không nói được một lời từ giã. Henry rời bệnh viện, trở lại khách sạn một mình trong cơn mưa.

Tác phẩm được khen ngợi vì tính hiện thực của nó. Tính hiện thực đó xuất phát từ cuộc sống và kinh nghiệm cá nhân riêng của chính tác giả. Vì thế, các nhà nghiên cứu văn học cho rằng “A Farewell to Arms” là một bán-tự-truyện (semi-autobiographical), vì sự tương tự giữa cuộc đời của Hemingway và nhân vật Henry là rất rõ ràng.

Trong suốt thời Đệ Nhất Thế Chiến, Hemingway là một tài xế lái xe cứu thương cho Hồng Thập Tự Hoa Kỳ. Giống như Henry, ông phục vụ ở mặt trận Ý. Vào đêm 8 Tháng Bảy, 1918, trong khi giao kẹo bánh và thuốc lá cho binh sĩ, ông bị trúng đạn súng cối, tay chân bị ghim có đến hơn 200 mảnh. Được chuyển đến bệnh viện ở Milan, nơi đó, ông gặp và yêu cô y tá Agnes von Kurowsky, 29 tuổi, lớn hơn ông 7 tuổi.

Tình yêu giữa Henry và Catherine trong truyện không khác mấy với tình yêu Hemingway dành cho Kurowsky. Tuy nhiên, Kurowsky phủ nhận điều đó. Mặc dù không yêu, nhưng Kurowsky không hoàn toàn cự tuyệt với ông. Trong nhật ký ghi ngày 25 Tháng Tám, 1918, bà viết: “Hemingway có cảm tình với tôi, hoặc cậu ấy nghĩ là như thế. Cậu ta rất đáng yêu…” Khi vết thương bắt đầu lành, hai người cùng đi xem kịch hoặc đi cỡi ngựa cùng nhau. Sau đó, Kurowsky tình nguyện đi Florence để tham gia chống dịch cúm.

Trong các lá thư gửi cho ông, bà vẫn gọi ông là “cậu bé” (kid). Còn ông thì gọi bà là “bà kid” hay “cô chủ” (Missis). Nhưng rồi, trong một lá thư đề ngày 7 Tháng Ba, 1919, bà cắt đứt quan hệ với Hemingway không lâu sau khi ông trở về nhà ở Illinois. Trong một lá thư khác, bà giải thích là bà rất có cảm tình với ông nhưng đó là thứ tình cảm của “một người mẹ hơn là một người tình” (more as a mother than as a sweetheart).

Theo chị gái Hemingway, Marcelline, sau khi đọc là thư này, Hemingway rất tuyệt vọng. Sau khi ông chết rồi, đứa con trai của ông, Jack, gọi sự cự tuyệt tình yêu của Agnes von Kurowsky là bi kịch tình cảm lớn nhất trong đời Hemingway. Theo các nhà nghiên cứu, rõ ràng Kurowsky là nguyên mẫu của nhân vật Catherine trong tác phẩm. Nhưng bà hoàn toàn không đồng ý.

Trong cuộc phỏng vấn vào năm 1976, bà bảo: “Tôi không phải là loại gái [như Catherine] đó.” Theo bà, hai người không hề yêu nhau. Nhân vật Catherine là một sản phẩm tưởng tượng. vì một thứ tình yêu diễn ra trong bệnh viện như thế hoàn toàn là không hợp đạo lý, theo bà.


Ernest Hemingway sinh năm 1899 tại Oak Park, Illinois. Trong Đệ Nhất Thế Chiến, ông tình nguyện gia nhập một đơn vị cứu thương của quân đội Ý. Sau đó, ông tham gia nội chiến Tây Ban Nha và Đệ Nhị Thế Chiến với tư cách là một phóng viên.

Ông tự sát tại nhà riêng ở Idaho năm 1961. Các tác phẩm nổi tiếng của ông gồm có: “The Sun Also Rises” (Mặt Trời Vẫn Mọc), “For Whom the Bell Tolls” (Chuông Gọi Hồn Ai), “Green Hills of Africa” (Những Đồi Xanh Phi Châu), “Three Stories and Ten Poems” (Ba Câu Chuyện và Mười Bài Thơ), “A Farewell to Arms” (Giã Từ Vũ Khí), “The Old Man and the Sea” (Ngư Ông và Biển Cả).

Share.

Leave a Reply