Wednesday, May 1 Bitcoin là gì? Có nên đầu tư vào bitcoin hay không?

2023.02.14

Chiến lược “quân dân dung hợp” của Trung Quốc và mối lo cho Việt NamTập Cận Bình duyệt đội danh dự ở Bắc Kinh trong lễ đón Tổng thống Phần Lan Sauli Niinisto (không có trong ảnh) hôm 14/1/2019 (minh họa)
 AP

Chiến lược “quân dân dung hợp”, tức là hợp nhất quân sự-dân sự (Military-Civil Fusion, viết tắt là MCF) của Trung Quốc nhằm tăng cường sự liên thông giữa hai khối quân sự và dân sự trong nghiên cứu, phát triển và sản xuất các công nghệ tiên tiến, nhằm hỗ trợ hiện đại hóa quân đội Trung Quốc.

Chiến lược này được điều phối bởi Ủy ban Trung trương Phát triển Quân dân Dung hợp, một ủy ban cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc, do đính thân Tổng bí thư Tập Cận Bình làm chủ tịch. Ủy ban này có nhiệm vụ giám sát và thúc đẩy sự phối hợp giữa hai khối quân sự và dân sự trong nước.

Audrey Fritz, chuyên gia cao cấp ở Viện Nghiên cứu Chính sách Chiến lược Úc, cho rằng chiến lược này nhắm tới mục tiêu tăng cường khả năng đổi mới sáng tạo và cải thiện khả năng áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào quân sự và kinh tế. Nó cũng tham vọng thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp mới và các hình thức kinh doanh mới bằng cách tạo ra cơ chế hội nhập giữa hai khối quân sự-dân sự.

Nhìn chung, chiến lược MCF của Trung Quốc là một nỗ lực của nước này nhằm xây dựng một quân đội mạnh và liên tục đổi mới sáng tạo, đồng thời hỗ trợ phát triển các công nghệ và ngành công nghiệp tiên tiến để thúc đẩy hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và quốc phòng.

Tháng 10 năm ngoái, ĐCSTQ làm đại hội lần thứ 20, Lý Cường được bầu vào Bộ Chính trị, đứng hàng thứ 2 sau Tập Cận Bình. Theo tập quán chính trị của Trung Quốc từ trước tới nay, người được chọn vào vị trí hàng thứ hai trong Bộ Chính trị ở đại hội vào tháng 10 năm trước, sẽ được đưa sang chính phủ đảm nhiệm vị trí thủ tướng từ tháng 3 năm sau.

Tan Hoa Xa TCB.jpg
(Tập Cận Bình thăm Triển lãm lần hai ở Bắc Kinh về thành tựu kỹ thuật của chương trình “Quân dân dung hợp”. Năm 2019. Ảnh: Tân Hoa Xã.)

Như bài trước đã nói đến, Lý Cường là chính khách đã thành công trong việc phát triển công nghệ cao ở các đô thị quan trọng nhất của Trung Quốc ở vùng hạ lưu sông Dương Tử: Thượng Hải, Chiết Giang, Giang Tô. Sự thăng tiến của Lý Cường, một lãnh đạo kinh tế và công nghệ ở địa phương quan trọng lên vị trí lãnh đạo kinh tế và công nghệ ở tầm quốc gia, cho thấy mục tiêu phát triển công nghệ của Trung Quốc vẫn đang được duy trì vững chắc. Trước những chuyển động mới này ở Trung Quốc, RFA trao đổi với Nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương ở Đại học New South Wales về chiến lược “quân dân dung hợp” và mục tiêu phát triển công nghệ cao của Trung Quốc  .

Xin ông giải thích về bản chất của mô hình “Dung hợp Quân sự và Dân sự” (Military Civil Fusion, viết tắt là MCF) của Trung Quốc. Nó có nhiệm vụ giải quyết những trở ngại gì và đạt tới mục tiêu gì? 

Nguyễn Thế Phương: “Dung hợp Quân sự và Dân sự” (Military Civil Fusion) về bản chất không phải khái niệm mới. Nó được tiến hóa từ một khái niệm cũ hơn là Kết hợp Quân sự và Dân sự (Military Civil Integration). Ở Trung Quốc thì lịch sử của chính sách này có thể truy ngược về thời Đặng Tiểu Bình, được tiếp nối bởi Giang Trạch Dân và sau đó là Hồ Cẩm Đào – Ôn Gia Bảo. Nhưng phải thừa nhận là chiến lược này được nâng cấp rất mạnh kể từ khi Tập Cận Bình nắm quyền từ 2012.

Mục tiêu chiến lược của Trung Quốc là bắt kịp Phương Tây về mặt công nghệ, đặc biệt là công nghệ quốc phòng. Họ nhận ra trở ngại lớn nhất trên con đường đạt tới mục tiêu này chính là việc duy trì mô hình công nhiệp quốc phòng như trước 2012.

Các nước có mô hình xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc thì công nghiệp quốc phòng chủ yếu dựa chủ yếu vào các công ty nhà nước. Mô hình này đặt ra một sự hạn chế rất lớn vai trò của tư nhân (do Nhà nước nắm độc quyền “bạo lực”). Mô hình này đã hạn chế động lực của quá trình đổi mới sáng tạo trong công nhệ an ninh – quốc phòng, làm cho nó không có nhiều tiến triển như mong muốn.

Nếu Trung Quốc muốn có một quân đội “world-class” (đẳng cấp thế giới) vào năm 2049 như họ mong muốn thì phải giải quyết điểm trở ngại có tính hệ thống nói trên.

Hoa Kỳ từ lâu cũng có sự hợp tác giữa tư nhân và nhà nước trong việc phát triển kỹ thuật quân sự. Mô hình “quân dân dung hợp” của Trung Quốc có gì khác với Hoa Kỳ hay không?

Nguyễn Thế Phương: Nhiều học giả cho rằng Trung Quốc học tập từ mô hình “quân dân dung hợp” từ Hoa Kỳ. Nhưng khác Mỹ, ở Trung Quốc, toàn bộ quá trình “dung hợp” này được cho là do nhà nước thúc đẩy, tức là từ trên xuống. Trong khi Mỹ vận hành bằng cơ chế tương tác có qua có lại giữa thị trường và nhà nước, trong đó các công ty tư nhân có tiếng nói lớn hơn.

Ở đây mô hình “quân dân dung hợp” của Trung Quốc là vấn đề thế giới và Việt Nam cần phải quan tâm bởi vì nó không những phát triển năng lực của quân đội Trung Quốc, mà còn vì các công cụ mà Trung Quốc áp dụng để thực thi chiến lược này: ăn cắp công nghệ, mua lại các công ty công nghệ phương Tây, tạo ra các chương trình thu hút nhân tài nước ngoài. Tức là Trung Quốc áp dụng mọi biện pháp từ chính thống tới không chính thống.

Mô hình “quân dân dung hợp” của Trung Quốc có khả năng thay đổi Trung Quốc như thế nào, và vì thế nó có thể thay đổi mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước lân bang, trong đó có Việt Nam, ra sao?

Nguyễn Thế Phương: Mô hình “quân dân dung hợp” (MCF) giúp đẩy nhanh hơn quá trình hiện đại hóa công nghệ quốc phòng, đặc biệt là các loại công nghệ mới, ở Trung Quốc. Nó làm căng thẳng thêm những xung đột hiện có giữa Trung Quốc và các quốc gia khác.

Bởi lẽ nó tạo ra các mặt trận an ninh và quốc phòng mới, phần nào đó thúc đẩy chạy đua vũ trang, đặc biệt trong công nghệ quân sự.

Việt Nam lo ngại không? Dĩ nhiên là có. Với tiềm lực mạnh về cả tài nguyên, và chính sách, mô hình “quân dân dung hợp” của Trung Quốc khiến cho cán cân quân sự và sức mạnh giữa Trung Quốc và các nước nhỏ ở Đông Nam Á ngày căng tăng.

Điều này dẫn tới sức mạnh cưỡng ép của Trung Quốc lớn hơn, và nguy cơ xung đột là lớn hơn trước đây. Do bởi Trung Quốc sẽ có sức mạnh lớn hơn, dẫn đến họ tự tin hơn, và quá tự tin vào sức mạnh bạo lực sẽ tạo ra rủi ro đối đầu nếu tính toán chính sách sai lầm.

Trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông, những rủi ro Việt Nam phải đối mặt là gì, khi mà mới đây Trung Quốc triển khai đầy đủ các vũ khí công nghệ cao và cơ sở hạ tầng quân sự tiên tiến (vũ khí laser, hệ thống tên lửa phòng không, tên lửa chống hạm, phi cơ tiêm kích, thiết bị gây nhiễu) lên các căn cứ ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa? Điều này có thể đặt ra một hàm ý gì cho Việt Nam trước chiến lược “quân dân dung hợp” để phát triển công nghệ cao của Trung Quốc? 

Nguyễn Thế Phương: Việc Trung Quốc triển khai vũ khí, cơ sở hạ tầng tới Biển Đông là không mới. Tuy nhiên, công nghệ hiện nay (thiết bị không người lái, vệ tinh, vũ khí tự động…) giúp Trung Quốc tận dụng tốt hơn các tài nguyên quân sự mà mình có trong tay. Điều này giúp họ kiểm soát thực địa tốt hơn, răn đe tốt hơn, và cưỡng ép tốt hơn.

Thực tế mà nói, chênh lệch về quân sự quốc phòng giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng tăng, không chỉ là về lượng mà còn về chất. Điều này rõ ràng vì Việt Nam là nước nhỏ hơn Trung Quốc nhiều, mà lại không có nhiều nguồn lực và nhiều thứ phải xuất phát từ đầu về công nghệ.

Mối đe dọa về an ninh và quốc phòng thì vô vàn, nhưng rõ ràng là sự thay đổi nhanh chóng trong năng lực quốc phòng của Trung Quốc bắt buộc Việt Nam phải thích ứng theo. Điều quan trọng là Việt Nam áp dụng chiến lược như thế nào, sử dụng nguồn lực ra sao. Quân sự cần có kinh tế và ngoại hỗ trợ, và điều này càng đúng với nước nhỏ.

Đối với chiến lược quân dân dụng hợp của Trung Quốc và sự phát triển của kỹ thuật quân sự dựa trên công nghệ cao, hiện tại có ba lĩnh vực mà Việt Nam nên quan tâm chú ý: an ninh mạng, các hệ thống không người lái, và chiến tranh trên không gian. Hai lĩnh vực đầu thì Việt Nam có một số bước tiến, còn lĩnh vực cuối cùng thì cần hợp tác quốc tế.

Cuối cùng, có lẽ Việt Nam nên bắt đầu học hỏi chính mô hình Trung Quốc, cho phép tư nhân tham gia sâu hơn và tòan diện hơn vào các lĩnh vực quốc phòng ít nhạy cảm, qua đó tận dụng được nguồn lực thị trường.

RFA xin cảm ơn Nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này. 

Share.

Leave a Reply