Saturday, April 27 Bitcoin là gì? Có nên đầu tư vào bitcoin hay không?

23:49 18.06.2023

Đồng Việt Nam - Sputnik Việt Nam, 1920, 18.06.2023
Năm 2022, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải đối mặt với áp lực lạm phát và tỷ giá nên đã thi hành các chính sách tiền tệ thắt chặt và bảo vệ đồng nội tệ như tăng lãi suất, bán ròng ngoại tệ.
Đáng chú ý, theo chuyên gia, NHNN đã bán ròng 25 tỷ USD, đối ứng cho khoản này là 500.000 tỷ VND bị hút về. Tuy nhiên, NHNN đã dồn dập hạ lãi suất để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp.
Thêm nữa, lãi suất Việt Nam chưa phải thuộc hàng cao nhất thế giới, chỉ có điều, lạm phát thấp mà lãi suất cho vay lại cao là điều bất thường, theo TS. Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên cao cấp trường Đại học Fulbright Việt Nam.

“Hạ lãi suất để tránh đổ vỡ kinh tế”

Hội thảo “Tìm ổn định trong bất định” do Chứng khoán Mirae Asset (Việt Nam) chủ trì diễn ra tại TP.HCM hôm qua 17/6 ghi nhận nhiều ý kiến đáng chú ý liên quan đến chính sách tiền tệ và tăng trưởng kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Phát biểu tại đây, chuyên gia kinh tế TS. Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên cao cấp trường Đại học Fulbright Việt Nam chia sẻ, Chính phủ thực sự quan ngại về tình trạng đình trệ sản xuất kinh doanh và doanh nghiệp khó khăn dẫn đến đổ vỡ.
Các cảnh báo, ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp đưa lên cấp cao nhất có thông điệp rất rõ về mặt bằng lãi suất cao, khả năng tiếp cận tín dụng khó khăn, không chỉ ảnh hưởng đến con số tăng trưởng kinh tế mà là sức khoẻ của nền kinh tế.
 
“Áp lực đó khiến Chính phủ phải mạnh tay hạ lãi suất. Thời điểm này vẫn còn dư địa, nếu không có dư địa thì có chỉ đạo cũng khó có thể thực hiện”, – Doanh nghiệp và Kinh doanh dẫn phát biểu của TS. Nguyễn Xuân Thành lưu ý.
Đầu tiên là lạm phát tính đến tháng 5 lạm phát chỉ còn quanh 2,4%, thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu 4% được Quốc hội đề ra hồi đầu năm. Trong đó, lạm phát tổng thể giảm từ 2,81% tháng 4 xuống 2,43% tháng 5, lạm phát cơ bản chỉ giảm từ 4,56% tháng 4 xuống 4,54% tháng 5.
Theo TS. Nguyễn Xuân Thành, hiện quan điểm điều hành chính sách vẫn là thận trọng với lạm phát nhưng không còn là nỗi lo lớn.
Ông cũng lưu ý, hiện tại, cách điều hành chính sách tiền tệ đang tác động đến thị trường Việt Nam. Những biến động những ngày qua, ngay trong ngắn hạn chính là câu chuyện tiền tệ.
Theo chuyên gia của Fullbright, có hai yếu tố quan trọng tác động đến sự điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), gồm cảnh kinh tế toàn cầu trong đó trọng tâm là lãi suất điều hành đồng USD của Fed qua đó ảnh hưởng đến tỷ giá của Việt Nam và trong nước, áp lực lạm phát còn hay không.
 
“Nếu không còn quá quan ngại tỷ giá dưới tác động từ kinh tế toàn cầu, và trong nước không quá quan ngại lạm phát, hướng điều hành từ nay đến cuối năm là tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ”, – chuyên gia nhận định.

NHNN đã bán ròng 25 tỷ USD

Tuy vậy, dù đã giảm lãi suất điều hành 4 lần, nhưng vẫn có những doanh nghiệp chưa tiếp cận được vốn, tăng trưởng tín dụng 5 tháng đầu năm vẫn đang ở mức thấp. Theo TS. Thành, đây là một hệ quả của việc thiếu hụt tiền trong nền kinh tế trong thời gian vừa qua.
 
“Cụ thể, trong năm 2022, NHNN phải đối mặt với áp lực lạm phát và tỷ giá nên đã thi hành các chính sách tiền tệ thắt chặt và bảo vệ đồng nội tệ như tăng lãi suất, bán ròng ngoại tệ. NHNN đã bán ròng 25 tỷ USD, đối ứng cho khoản này là 500.000 tỷ VND bị hút về”, – chuyên gia Nguyễn Xuân Thành bày tỏ.
Phân tích rõ hơn về dư địa để NHNN tiếp tục hạ lãi suất, ông Nguyễn Xuân Thành cho biết, sau 10 lần tăng lãi suất, Fed đã tạm thời dừng lại. Thanh khoản trên thị trường tiền tệ được cải thiện.
Tỷ giá VND/USD ổn định trong suốt tháng 3 và tháng 4, trong khi USD xuống giá so với nhiều đồng tiền khác.
Năm ngoái, đồng USD tăng giá khiến các nhà điều hành lo ngại đồng VND mất giá đã phải liên tục có những động thái để bảo vệ tỷ giá, lạm phát gia tăng nên phải thắt chặt tiền tệ.
Đến cuối năm 2022, NHNN đã bán ra 25 tỷ USD, dự trữ ngoại hối xuống khoảng 83,5 tỷ USD. Nhưng năm 2023, NHNN đang mua vào USD để tăng dự trữ. Hiện, theo con số được ông Thành đưa ra, dự trữ đã đưa lại lên 91,5 tỷ USD, dự báo NHNN sẽ tiếp tục mua vào USD để đưa dự trữ ngoại hối tới cuối năm lên 100 tỷ USD.
Điều này giúp các nhà điều hành đạt được mục tiêu kép vừa tăng dự trữ ngoại hối vừa bơm VND ra thị trường qua đó tác động trực tiếp tới nền kinh tế.
 
“Không bị áp lực tỷ giá và lạm phát, thanh khoản dồi dào là cơ sở để NHNN hạ lãi suất”, – ông Thành cho hay.
TS. Nguyễn Xuân Thành nhắc lại, bên ngoài áp lực tỷ giá giảm, bên trong lạm phát cũng đã qua đỉnh. Hiện nay, dù tín dụng đã tăng trưởng nhanh trở lại từ nửa cuối tháng 3/2023, nhưng tính chung 5 tháng đầu năm vẫn tăng trưởng chậm. NHNN đưa mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14-15%, 5 tháng đầu năm, tín dụng tăng 3,17% so với cuối năm 2022.
Với diễn biến trên, Ngân hàng Nhà nước đang nỗ lực vừa bơm tiền ra, vừa hạ lãi suất để tăng trưởng tín dụng. Do đó, theo ông Thành đánh giá đây là tác động lớn nhất cho thị trường trong nửa cuối năm nay.
 

“Áp lực rất lớn của Chính phủ hiện nay là hạ lãi suất cho doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy được tăng trưởng tín dụng. Vì vậy, dự báo trong nửa cuối năm 2023, NHNN sẽ vừa bơm tiền, vừa hạ lãi suất điều hành“, – chuyên gia Nguyễn Xuân Thành nhìn nhận.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Sputnik Việt Nam, 1920, 16.06.2023

Phải giảm lãi suất điều hành ngay trong tháng 6

Lãi suất Việt Nam thuộc hàng cao nhất thế giới?

Trả lời câu hỏi của nhà đầu tư về việc “vì sao lãi suất ngân hàng cho vay ở Việt Nam cao?”, Giảng viên cao cấp Đại học Fulbright cho rằng, hiện mức lãi suất cho vay ở Việt Nam không phải cao nhất thế giới, vì nhiều nước khác đang ở bờ vực khủng hoảng có mức lãi suất từ 30-100%/năm.
Chẳng hạn, nếu so sánh các nước đang bị khủng hoảng hoặc trên bờ vực khủng hoảng, có lạm phát cao như Argentina ~40%, Thổ Nhĩ Kỳ rất cao trong khi lãi suất của Việt Nam khoảng 13-14% là không cao.
 
“Tuy nhiên điều bất thường là lạm phát ở Việt Nam không ở mức quá cao (2,4%), trong khi mặt bằng lãi suất cho vay lên tới 13-14%/năm”, – chuyên gia chỉ rõ.
Chuyên gia nêu 3 nhóm nguyên nhân chính, bắt đầu tư việc lãi suất vay cao vì tác động ảnh hưởng của vấn đề “niềm tin xói mòn” sau nhiều biến động trong hệ thống thời gian qua.
 
“Niềm tin của người dân vào hệ thống tài chính bị xói mòn sau khi ngân hàng SCB bị kiểm soát đặc biệt. Như vậy, thị trường đòi hỏi phải có mức lãi suất cao mới có thể giữ tiền trong tiết kiệm”, – TS. Nguyễn Xuân Thành cho biết.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng có sự chênh lệch quá lớn về quy mô, chất lượng quản trị, sức khỏe tài chính… giữa ngân hàng tốt và ngân hàng yếu kém, đòi hỏi các ngân hàng yếu kém phải huy động vốn (lãi suất gửi tiết kiệm cao).
 

“Vừa rồi, lãi suất tiết kiệm đã giảm, lãi suất tiết kiệm kỳ trên 12 tháng khoảng 6,9%- 8,5%, ngân hàng nào quá thiếu vốn mới nâng lên 9%. Nhưng lãi suất cho vay vẫn 13%, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phải vay với mức lãi suất cao hơn, không được ưu ái”, – chuyên gia cho rằng, nguyên nhân chênh lệch chủ yếu nằm trong hệ thống các ngân hàng.

Thêm nữa, còn tồn tại sở hữu chéo. TS. Thành cho rằng, có ngân hàng là “sân sau” của doanh nghiệp bất động sản. Trong bối cảnh doanh nghiệp bất động sản khó khăn, chủ ngân hàng tìm cách cho vay với lãi cao, với hy vọng vừa đỡ được ngân hàng vừa cứu được công ty bất động sản.
Đồng thời, trong điều hành chính sách tiền tệ cũng có những bất cập, phi thị trường và giật cục, như việc áp quota (hạn ngạch) tín dụng, áp trần lãi suất dẫn đến tình trạng có ngân hàng tốt cần tăng trưởng nhanh nhưng không được cho và ngược lại, khiến mặt bằng lãi suất cao.

Những người đang đi xe máy qua trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ở trung tâm thành phố Hà Nội - Sputnik Việt Nam, 1920, 16.06.2023

Quyết định hạ lãi suất rất nhanh của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Hồi phục niềm tin

Gần đây nhiều người đặt vấn đề vì sao có tồn đọng tới 1 triệu tỷ đồng ngân quỹ quốc gia đang gửi ngân hàng, nhưng không thể tiêu để thúc đẩy nền kinh tế. Chuyên gia cho rằng, có hai yếu tố gây cản trở đầu tư công, bao gồm: chưa chuẩn bị dự án và nỗi sợ rủi ro nên không dám ký.
Năm ngoái bên cạnh trường hợp không đặt bút ký vì sợ rủi ro thì còn có khó khăn là nhiều dự án chuẩn bị không kịp nên không thể phân bổ vốn đầu tư. Năm nay yếu tố chưa chuẩn bị dự án đã khắc phục được, vì đã phân bổ gần 700.000 tỷ đồng, đạt khoảng 98% kế hoạch được giao. Việc sợ rủi ro cũng được giải quyết đáng kể, hiện đã tiêu hơn 20% trong tổng ngân sách.
 
“Tốc độ chi rất lớn, đặc biệt cho các dự án giao thông, cho thấy có sợ củi sợ lửa, nhưng có tiền cũng phải chi”, – chuyên gia nhận định.
TS. Nguyễn Xuân Thành nhấn mạnh tăng đầu tư công là quyết tâm rất cụ thể của Chính phủ trong thời gian hiện nay, không thể đảo ngược. Hai năm tiếp theo cũng sẽ duy trì mức giải ngân vốn đầu tư công cao.
Riêng đối với thị trường chứng khoán, Tuổi trẻ dẫn ý kiến của ông Đinh Minh Trí, Trưởng phòng phân tích tại Chứng khoán Mirae Asset chia sẻ tại Hội thảo cho rằng mức độ quan tâm của nhà đầu tư đang chuyển biến tích cực, biểu hiện qua các phiên giao dịch tỷ USD và số lượng tài khoản chứng khoán tăng trở lại.
Theo đó, nửa đầu tháng 6 khối ngoại mua ròng hơn 800 tỷ đồng trên sàn TP.HCM. Có thể thấy nhà đầu tư chứng khoán dần được hồi phục niềm tin, khi Chính phủ quyết liệt giảm lãi suất, hỗ trợ chính sách ngành bất động sản, thúc đẩy đầu tư công.
Theo lãnh đạo Mirae Asset, nhà đầu tư có thể quan tâm tới ngành xây lắp, đầu tư công, phân bón, hóa chất, bán lẻ.(Spunik Vietnam)
Share.

Leave a Reply